Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

PHÁC THẢO MỘT SỐ XU HƯỚNG NGHIÊN CỨU NHO GIÁO VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA

Nho giáo Việt Nam đã được giới học thuật nghiên cứu trong nhiều năm qua với những kết quả khả quan cả về phương pháp và lý luận. Trong bài viết này, chúng tôi tiếp cận Nho giáo Việt Nam thông qua việc xác định một số xu hướng nghiên cứu Nho giáo Việt Nam (hay còn gọi là Nho học) trong bối cảnh giao lưu, hội nhập hiện nay. Có thể khái quát thành ba xu hướng sau đây: (1) xu hướng đối thoại với các trường phái Nho học khác trong khu vực và thế giới; (2) xu hướng tổng tích hợp lý thuyết liên ngành và đa ngành trong nghiên cứu các vấn đề Nho học Việt Nam; (3) xu hướng nhận thức lại kinh điển Nho gia Việt Nam từ các cách tiếp cận đương đại.

1. Nho giáo thường được xem như là một trong những di sản tinh thần của người Trung Quốc được du nhập và tạo được ảnh hưởng sâu rộng trong đời sống văn hóa Việt Nam. Sự hình thành và quá trình phát triển của Nho giáo gắn liền những trí tuệ anh minh bậc nhất của Trung Quốc từ quá khứ đến hiện tại. Khi được du nhập vào Việt Nam, Nho giáo đã dần biến đổi cùng với quá trình "tiếp biến văn hóa" và "bản địa hóa" (Việt hóa) mà nhờ đó, những nét ban sơ của Nho giáo Trung Quốc đã hòa quyện với những yếu tố bản địa đặc sắc của văn hóa Việt để tạo thành cái gọi là Nho giáo Việt Nam[1] mang những đường nét rất riêng. Có thể nói rằng, thoát thai từ Nho giáo Trung Quốc, tuy nhiên, xét trong một chừng mực nhất định, Nho giáo Việt Nam đã dần vươn lên trở thành một thực thể độc lập, và trở thành hệ tư tưởng chính thống của tập đoàn phong kiến Việt Nam trong một số giai đoạn lịch sử nhất định.
      Dòng thời gian vẫn tiếp tục trôi đi, bánh xe lịch sử cũng không ngừng tiến lên phía trước. Một thời đại mới đã mở ra với nhiều cơ hội và thách thức. Người ta thường gọi đó là thời đại toàn cầu hóa. Có thể nói, trong thế giới đương đại, hầu như mọi giá trị, bao gồm cả giá trị truyền thống của các dân tộc, đều được đặt trước những thách thức của toàn cầu hóa. Và, Nho giáo Việt Nam với những nét riêng của nó, cũng không thể nằm ngoài xu thế ấy. Đó cũng là lẽ tất yếu để đảm bảo cho sự phát triển nội tại của chính bản thân Nho giáo Việt Nam.  
2. Luận bàn về đặc trưng của Nho giáo Việt Nam và khía cạnh Nho học của nó hiện không còn là một vấn đề mới mẻ. Trong những năm qua, giới nghiên cứu đã tiếp cận và từng bước khái quát về các đặc trưng của Nho giáo Việt Nam.
       Trước khi đi vào những nét riêng của Nho giáo Việt Nam, cần khẳng định ngay rằng, khởi nguồn từ Nho giáo Trung Quốc nên tất yếu Nho giáo Việt Nam không thể không chịu ảnh hưởng sâu sắc và có nhiều nét tương đồng với Nho giáo Trung Quốc. Song, điều đó không có nghĩa Nho giáo Việt Nam mất đi tính độc lập tương đối của nó. Quá trình tiếp biến văn hóa đã cho thấy, Nho giáo khi được du nhập vào Việt Nam đã dần kết hợp với những yếu tố bản địa của nền văn hóa Việt để dần trở thành sản phẩm truyền thống của người Việt, hay nói cách khác là Nho giáo khi được du nhập vào Việt Nam thì đã được Việt hóa cùng với tiến trình lịch sử.[2] Theo lời của cố giáo sư Trần Đình Hượu thì Nho giáo đã tồn tại thực ở nước ta hàng chục thế kỷ. Trong thời gian lâu dài như thế, ở vị trí là hệ tư tưởng chính thống, nó đã chi phối khá nhiều mặt đời sống tinh thần của dân tộc Việt. Tuy không phải là thổ sản nhưng với quá trình di thực và phát triển lâu dài như thế, nó cũng thành của ta. Nói chuyện văn hóa ở nước ta thì không thể không tính đến Nho giáo.[3] Có thể xem lời nhận xét trên đây của một chuyên gia về Nho học đủ để thẩm định vị trí quan trọng của Nho giáo trong nền văn hóa Việt.
     Về phương diện lịch sử, Nho giáo được du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc, tuy nhiên phải đến giai đoạn từ thế kỷ XV đến thế kỷ XIX, Nho giáo mới thực sự vươn mình trở thành hệ tư tưởng chủ đạo ở Việt Nam, gắn liền với sự thịnh suy của hai triều đại phong kiến Lê - Nguyễn. Không dừng ở đó, Nho giáo còn là một trong những nền tảng để xây dựng đường lối trị nước, cách thức đào tạo nhân tài, xác lập các quy phạm đạo đức, nuôi dưỡng đời sống nghệ thuật và tinh thần của người Việt... Rõ ràng, mỗi bước đi của lịch sử phong kiến Việt Nam là một sự khẳng định vai trò của Nho giáo.
      Về đại thể, Nho giáo Việt Nam là sự tiếp thu Nho giáo Trung Quốc, nhưng không còn giữ những đường nét nguyên thủy của nó nữa mà đã có sự biến đổi nhất định. Quá trình du nhập và xác lập vị trí thống trị của Nho giáo trong đời sống văn hóa xã hội Việt Nam là một quá trình tiếp biến văn hóa hết sức sáng tạo của người Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước. Nói cách khác, Nho giáo Việt Nam đã trở thành một phần của truyền thống văn hóa Việt, mang trong mình những nét văn hóa và tính cách riêng của người Việt, tạo nên sự đặc sắc của Nho giáo Việt Nam.
       Trong những năm qua, giới nghiên cứu đã dành sự chú ý tìm hiểu về các đặc trưng của Nho giáo Việt Nam, và trên thực tế công việc này đã đạt được không ít thành tựu. Ở đây chúng tôi chỉ xin khái quát một số nét riêng của Nho giáo Việt Nam như sau:
       Thứ nhất, Nho giáo Việt Nam về đại thể thiên về tính thực tế hơn là tính triết luận, tư biện về cái lý cao siêu của trời đất. Nghĩa là, do ít thiên về suy tư nên Nho giáo Việt Nam thường lược bỏ những yếu tố trừu tượng, phức tạp, rối rắm để hướng đến những gì đơn giản, dễ thấy và dễ vận dụng vào thực tế. Theo như nhận định của giáo sư Nguyễn Tài Thư, "Nho sĩ Việt Nam thường quan tâm đến vấn đề chính trị và đạo đức, ít bàn đến vấn đề siêu hình, một lĩnh vực cao của tư duy, ở đó ẩn chứa những khả năng nhận thức sâu sắc và hành động sáng tạo. Thậm chí, họ còn biến cái siêu hình thành cái thực tế, thực dụng"[4]. Có thể thấy rằng, đặc trưng này của Nho giáo Việt Nam, trong chừng mực nhất định, mang đậm tính cách đặc trưng của con người Việt Nam mà các nhà nghiên cứu văn hóa đã chỉ ra.
        Thứ hai, Nho giáo Việt Nam đề cao phạm trù Nghĩa. Nếu như Nho giáo Trung Quốc đề cao phạm trù Nhân, Nho giáo Nhật Bản coi trọng phạm trù Trung, thì trong quan niệm của các nhà Nho Việt Nam, Nghĩa luôn được hiện diện với tư cách là phạm trù trung tâm, chi phối các phạm trù khác. "Các quan niệm hiếu, trung, nhân, lễ khi vào Việt Nam thường gắn liền với nghĩa. Nghĩa là điều kiện hóa của hiếu, trung, nhân, lễ. Người Việt thường nói hiếu nghĩa, trung nghĩa, nhân nghĩa, lễ nghĩa và dường như hiếu, trung, nhân, lễ phải được hiểu và ứng xử như là nghĩa".[5] Suy rộng ra, Nghĩa đã đi vào đời sống thường ngày, vào nếp nghĩ và hành vi của người Việt.
       Thứ ba, Nho giáo Việt Nam thể hiện đặc tính không thuần nhất. Bản thân Nho giáo Việt Nam cũng chưa bao giờ thuần nhất mà là một thứ Nho giáo không thuần nhất, đã luôn luôn dung hợp với tư tưởng Âm Dương, Phật, Đạo, lại kết hợp với tín ngưỡng, tập quán, tư tưởng địa phương,... và mặt khác, trước thực tế Việt Nam, những quan hệ mới, vấn đề mới cũng  đòi hỏi nó phải thích ứng.[6] Đặc trưng này của Nho giáo Việt Nam còn thể hiện rõ nét qua hiện tượng Tam giáo đồng nguyên (hay còn gọi là Hội nhập Tam giáo) - một hiện tượng đặc biệt của văn hóa Việt Nam.
       Tất nhiên, Nho giáo Việt Nam còn mang nhiều nét đặc sắc khác, những đặc trưng trên chỉ là những nét cơ bản và dễ nhận diện. Trong mắt nhìn của chúng tôi, công việc khám phá những đặc trưng của nó vẫn chưa hoàn thành mà hiện vẫn đang còn tiếp tục, nếu không muốn nói là chỉ mới ở bước khởi đầu.
3. Nho giáo đã trở thành một phần của truyền thống văn hóa Việt Nam và trong tư cách này, Nho giáo Việt Nam đang chịu tác động một cách mạnh mẽ của xu thế toàn cầu hóa. Sự tiếp xúc của văn hóa truyền thống và tính hiện đại cũng là một đề tài được nhiều học giả Việt Nam quan tâm. Ở đây, vấn đề đặt ra là liệu văn hóa truyền thống đối xử như thế nào với tính hiện đại và ngược lại? Liệu có xảy ra quá trình triệt hủy nhau hay là tương hợp, thâm nhập cải biến lẫn nhau? Xuất phát từ việc trả lời những vấn đề có tính phương pháp luận ấy, chúng ta có thể khẳng định rằng, Nho giáo Việt Nam buộc phải tự biến đổi và làm mới chính nó nếu muốn hội nhập và phát triển trong xu thế chung của thời đại.
      Cần thấy rằng, trên khía cạnh văn hóa - xã hội, Nho giáo đã hiện diện và giữ vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa của người Việt. Thậm chí, trong một thời gian khá dài (đặc biệt là từ thời vua Lê Thánh Tôn đến thời Nguyễn), Nho giáo đã vươn lên vị trí độc tôn và trở thành hệ tư tưởng chính thống của chế độ phong kiến Việt Nam.
        Với tư cách là một biểu hiện của ý thức xã hội (ở cả cấp độ hệ tư tưởng và tâm lý xã hội), cố nhiên Nho giáo không thể không chịu sự chi phối của tồn tại xã hội. Những sự biến đổi về điều kiện kinh tế - xã hội ở Việt Nam đã quy định việc Nho giáo phải nhường lại vũ đài chính trị cho những hệ tư tưởng tiến bộ hơn và mang tính cách mạng hơn. Tuy nhiên, nói như thế không có nghĩa là Nho giáo đã hoàn toàn mất đi vai trò quan trọng của nó. Xét ở cấp độ hệ tư tưởng chính trị thì Nho giáo không còn giữ vai trò là nền tảng tư tưởng của sự phát triển xã hội Việt Nam đương đại. Nhưng ở cấp độ tâm lý xã hội thì Nho giáo vẫn còn và sẽ còn lưu lại ảnh hưởng lâu dài trong văn hóa và con người Việt. Những chuẩn mực đạo đức và giá trị nhân văn tốt đẹp của Nho giáo vẫn sẽ là yếu tố cần tiếp thu, kế thừa trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta.
        Trong chừng mực nhất định, chúng ta còn có thể giả định về một sự trở lại của Nho giáo Việt Nam trong thời hiện đại. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng, sự trở lại ở đây không phải ngụ ý về một cuộc phục hưng Nho giáo với tư cách là một hệ tư tưởng chi phối toàn bộ xã hội như trong các thời đại phong kiến trước đây, bởi lẽ xã hội Việt Nam hiện nay không còn thuộc về Nho giáo, bởi lẽ không có cơ sở để phục hồi cái chế độ mà Nho giáo là nền tảng tư tưởng.[7] Vì thế, cần hiểu sự trở lại của Nho giáo Việt Nam theo nghĩa là Nho giáo đang thay đổi dưới một diện mạo mới phù hợp hơn với xu thế vận động và phát triển của thời đại.
       Khi khảo cứu về sự vận động và phát triển của Nho giáo Việt Nam hiện nay, chúng tôi đặc biệt chú ý đến khía cạnh Nho học (chúng tôi nhấn mạnh) của nó, bởi lẽ đây là một trong những khía cạnh thể hiện rõ nét nhất xu hướng đổi mới của Nho giáo Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Quy luật phổ biến của sự vận động và phát triển chỉ ra rằng, bất cứ một giá trị truyền thống nào cũng không thể tồn tại lâu bền nếu không có sự đổi mới. Nho giáo Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật phổ biến ấy. Nếu vẫn đi theo khuôn mòn lối cũ, không có sự đổi mới trong cách tiếp cận và phạm vi nghiên cứu thì e rằng Nho học Việt Nam sẽ khó có thể đối thoại với tính hiện đại và tính toàn cầu một cách có hiệu quả. Nhìn về lịch sử, có thể thấy rằng không phải đến thời gian gần đây, nghiên cứu Nho học Việt Nam mới chuyển mình đổi mới. Xu hướng hiện đại hóa trong nghiên cứu Nho học đã được giới học thuật Việt Nam khơi mào từ đầu thế kỷ trước với những tên tuổi lừng lẫy của nền Nho học Việt như Đào Duy Anh, Cao Xuân Huy... Tuy nhiên, đổi mới là một quá trình lâu dài, liên tục và gắn liền với mạch đập của thời đại. Hiện nay, bối cảnh toàn cầu hóa đang mở ra những cơ hội thuận lợi để việc nghiên cứu về Nho học Việt Nam có thể phát triển theo những xu hướng ngày càng rộng mở. Ở đây, chúng tôi xin phác thảo một số xu hướng chủ yếu sau đây:
Trước hết, đó là xu hướng hội nhập và đối thoại của nghiên cứu Nho học Việt Nam trong bối cảnh khu vực và thế giới. Xu hướng này thể hiện rõ nét trong thập niên vừa qua và sẽ có nhiều triển vọng phát triển trong tương lai. Nghiên cứu Nho học Việt Nam đang thực hiện hợp tác trên cơ sở đối thoại một cách có hiệu quả với các trường phái Nho học Á Đông khác. Viễn tượng rộng mở của thời đại toàn cầu đã và đang tạo ra môi trường thuận lợi để thúc đẩy xu hướng này phát triển nhanh chóng. Nghiên cứu Nho học Việt Nam giờ đây không còn là tiếng nói độc thoại với chính mình mà đã tăng cường khả năng trao đổi, đối thoại về mặt học thuật với các trường phái Nho học khác trong khu vực Đông Á như Nho học Nhật Bản, Nho học Trung Quốc, Nho học Hàn Quốc... Nhận định xu hướng này, nhà nghiên cứu Nguyễn Kim Sơn viết: "Trong bối cảnh nghiên cứu Nho giáo trên thế giới đang biến chuyển rất mạnh mẽ, việc tìm hiểu và hội nhập quốc tế trong nghiên cứu là việc hết sức cần thiết. Các nghiên cứu về động thái tư tưởng trong khu vực Đông Á cũng giúp cho chúng ta kịp thời đặt ra những hướng đi và xác định nhiệm vụ cho việc nghiên cứu"[8].
Trong tương lai, xu hướng hội nhập và đối thoại này cần và hơn thế nên được đầu tư phát triển mạnh mẽ hơn và mở rộng hơn nữa về cả quy mô lẫn phạm vi. Theo đó, Nho học Việt Nam không chỉ dừng lại ở việc đối thoại, hợp tác với các trường phái Nho học ở các nước Á Đông, Nho học Việt Nam có thể mở rộng giao lưu với các trường phái Nho học ở phương Tây và những vùng lãnh thổ khác trên thế giới để có thể tìm tòi, trao đổi, tiếp thu những hướng kiến giải mới và những cách tiếp cận mới trong nghiên cứu các vấn đề đương đại của Nho học Việt Nam.
Thứ hai, đó là xu hướng tổng tích hợp - liên kết tri thức của các ngành khoa học khác nhau để hình thành một hệ thống nghiên cứu liên ngành và đa ngành về các vấn đề của Nho học Việt Nam. Xu hướng này diễn ra khá mạnh trong thời gian gần đây. Việc liên kết - phối hợp các hướng tiếp cận từ nhiều ngành khoa học khác nhau như nhân học, xã hội học, chính trị học, kinh tế học, luật học... đã góp phần chiếu sáng những mảng đề tài, những vấn đề mới của Nho giáo Việt Nam và đã đem lại những tri thức hữu ích và quý giá trong việc giải quyết hệ vấn đề mà xã hội Việt Nam đặt ra trong giai đoạn hiện nay.[9] Có thể khẳng định rằng, đây cũng là một xu hướng đầy triển vọng và hứa hẹn mang đến những kết quả khả quan trong nghiên cứu Nho học ở Việt Nam trong bối cảnh hiện tại.
Thứ ba, sự xuất hiện của những cách tiếp cận mới như cấu trúc luận, giải cấu trúc luận, thông diễn học, phức hợp luận, nữ quyền luận, chủ nghĩa hậu hiện đại... được phổ biến Việt Nam trong thập niên gần đây đã, đang và sẽ đem lại những khả năng mới, góp phần đa dạng hóa cách tiếp cận trong nghiên cứu và kiến giải các kinh điển quan trọng của Nho giáo Việt Nam. Điều này là rất cần thiết bởi lẽ một sự đa dạng trong cách tiếp cận như thế có thể triển lộ nhiều cái mới trong điển cũ mà trước đây giới nghiên cứu với phương pháp tiếp cận cũ chưa phát hiện ra.
Những cách tiếp cận trên kết hợp với cách tiếp cận duy vật biện chứng thường được giới nghiên cứu sử dụng để nhận thức lại Nho giáo trong mối quan hệ với những vấn đề đương đại của Việt Nam. Những vấn đề về ý thức dân tộc và chủ nghĩa dân tộc, xây dựng đạo đức mới, bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ, sự biến đổi của Nho giáo trong bối cảnh toàn cầu hóa, xây dựng và phát triển xã hội học tập... đang ngày càng thu hút được sự chú ý đặc biệt của giới nghiên cứu về Nho giáo ở Việt Nam. Xu hướng này góp phần làm hiển lộ những giá trị mới mang tính thời đại của Nho giáo và đồng thời qua đó chính bản thân Nho giáo Việt Nam cũng tìm thấy triển vọng phát triển của nó.
4. Nho giáo từ khi ra đời đến nay đã trên 2.500 năm và đã từng ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc đến xã hội Việt Nam đã góp phần xây dựng một xã hội thịnh vượng, ổn định, có trật tự, có pháp luật, một quốc gia thống nhất.
      Ngày nay, Nho giáo không còn sôi nổi trên bề mặt như trong những thế kỷ trước nữa, song không có nghĩa Nho giáo đã chấm dứt vai trò lịch sử của nó ở Việt Nam. Điều đó chỉ nói lên một điều rằng, Nho giáo đã thẩm thấu vào chiều sâu của văn hóa Việt, và ảnh hưởng sâu sắc đến quan niệm và lối sống của người Việt.
        Tất nhiên, những xu hướng được phác thảo trong bài viết này chưa phản ánh một cách đầy đủ nhất về hiện trạng nghiên cứu Nho học ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, trong xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ hiện nay với những tác động đa chiều, thậm chí ngược chiều nhau, thì mọi nỗ lực nhằm xác định lôgic vận động và phát triển của nền văn hóa Việt nói chung, của Nho giáo Việt Nam nói riêng, đều rất cần thiết và đáng quý. Bởi lẽ chỉ trên cơ sở đó, chúng ta mới có thể xác định đúng phương hướng và giải pháp để bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống trong bối cảnh thời đại, hướng đến xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Đó cũng chính là ý hướng của tác giả khi khởi thảo bài viết này.




TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Phan Đại Doãn (1998), Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Vũ Khiêu, Nho giáo xưa và nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991.
3. Nguyễn Hùng Hậu (2004), Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
4. Trần Đình Hượu (1996), Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Hà Nội.
5. Nguyễn Kim Sơn (2010), "Mấy vấn đề nổi bật trong nghiên cứu Nho giáo Đông Á đầu thế kỷ XXI và nhiệm vụ đặt ra cho việc nghiên cứu nho giáo Việt Nam hiện nay", Kỷ yếu hội thảo Nghiên cứu và đào tạo khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam thành tựu và kinh nghiệm, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, http://lib.ussh.vnu.edu.vn/
6. Nguyễn Tài Thư (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. Nguyễn Khắc Viện (2000), Bàn về đạo Nho, Nxb Thế giới, Hà Nội.
8. Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Harvard Yenching (2009), Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt nam từ hướng tiếp cận liên ngành, Nxb Thế giới, Hà Nội.


[1] Nho giáo Việt Nam và Nho học Việt Nam là hai khái niệm gần gũi nhưng không đồng nhất về nội hàm khái niệm. Về điều này, các học giả Việt Nam đã phân biệt trong một số công trình nghiên cứu (Xem thêm: Nguyễn Tài Thư, Nho học và Nho học ở Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997; Phan Đại Doãn, Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998; Nguyễn Hùng Hậu, Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2004). Tham khảo các tài liệu trên, trong bài viết này, chúng tôi muốn lưu ý rằng, mỗi khi sử dụng thuật ngữ "Nho giáo Việt Nam" thì cũng có nghĩa đã bao hàm trong nó khía cạnh nghiên cứu Nho học và đây cũng là khía cạnh chính yếu của Nho giáo Việt Nam mà chúng tôi nhấn mạnh phân tích.
[2] Thực ra, không chỉ riêng Nho giáo mà Phật giáo, Lão giáo, thuyết Âm Dương... khi được du nhập vào Việt Nam cũng đều chịu sự tác động của quá trình Việt hóa ấy.
[3] Xem: Trần Đình Hượu, "Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo", trong Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1996. Dẫn theo nguồn: http://triethoc.edu.vn/
[4] Xem: Nguyễn Tài Thư, "Một số đặc trưng cơ bản của Nho giáo Việt Nam", đăng trên Tạp chí Triết học. Dẫn theo nguồn: http://chungta.com/Desktop.aspx/ChungTa-SuyNgam/Nhan-Thuc/Mot_so_dac_trung_co_ban_cua_Nho_giao_Viet_Nam/
[5] Xem: Nguyễn Hùng Hậu, Triết lý trong văn hóa phương Đông, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội, 2004, tr. 387.
[6] Xem: Trần Đình Hượu, "Mấy ý kiến bàn về nghiên cứu Nho giáo", trong Đến hiện đại từ truyền thống, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1996. Dẫn theo nguồn: http://triethoc.edu.vn/
[7] Xem: Nguyễn Tài Thư, Nho học và Nho học Việt Nam - Lý luận và thực tiễn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1997, tr. 178.
[8] Nguyễn Kim Sơn, "Mấy vấn đề nổi bật trong nghiên cứu Nho giáo Đông Á đầu thế kỷ XXI và nhiệm vụ đặt ra cho việc nghiên cứu nho giáo Việt Nam hiện nay", Kỷ yếu hội thảo Nghiên cứu và đào tạo khoa học xã hội và nhân văn ở Việt Nam thành tựu và kinh nghiệm, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2010. Nguồn: http://lib.ussh.vnu.edu.vn/
[9] Xem thêm: Viện Nghiên cứu Hán Nôm - Viện Harvard Yenching, Nghiên cứu tư tưởng Nho gia Việt Nam từ hướng tiếp cận liên ngành, Nxb Thế giới, Hà Nội, 2009.

XÓA BỎ ĐỊNH KIẾN GIỚI VỚI PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA


Tóm tắt:

Phát triển nguồn lực con người hiện đang trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết  đối với nhiều quốc gia trên thế giới nhằm đảm bảo một sự phát triển vững chắc và lâu bền trong hiện tại và tương lai. Đối với Việt Nam, quan điểm phát triển nguồn lực con người đã được Đảng và Nhà nước khẳng định, và đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của chiến lược phát triển đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phương châm phát triển bền vững cần và hơn thế phải huy động mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực con người giữ một vai trò trung tâm của sự phát triển. Tuy nhiên định kiến giới với tư cách là định kiến đối với nữ giới (chúng tôi nhấn mạnh) đang trở thành rào cản gây trở ngại không nhỏ đối với việc xây dựng và phát huy nguồn lực con người ở Việt nam. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích về định kiến giới, qua đó đề xuất một số phương hướng góp phần xóa bỏ định kiến giới, mở đường cho việc phát triển nguồn lực con người bền vững ở Việt Nam hiện nay.


1. Nguồn lực con người - nhân tố quyết định đến sự phát triển bền vững ở Việt Nam
Thế giới đương đại đang thể hiện một bộ mặt rất sống động với quá nhiều sự thay đổi so với trước đây. Có thể nói, đây là thời đại mà các quốc gia, dân tộc phải không ngừng củng cố và phát triển tiềm lực để có thể tồn tại trong bối cảnh toàn cầu hóa đầy cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Phát triển là xu thế tất yếu của mọi quốc gia, song phát triển như thế nào thì lại là một vấn đề cần phải đặt ra và suy nghĩ. Nếu như nhà triết học Đức Martin Heidegger (1889 - 1976) từng nói rằng mỗi thời đại đều có một vấn đề để phản tư, thì ngày nay, phát triển đang nổi lên như là một vấn đề của thời đại. Trên các diễn đàn, phát triển đã được tiếp cận và kiến giải bằng nhiều cách khác nhau, nhiều mô hình phát triển đã được đưa ra thảo luận và triển khai. Quả thật, "cái gì hợp lý thì tồn tại, cái gì tồn tại thì hợp lý", nhà triết học Đức G.W.F. Hegel (1770 - 1831) đã nói như thế, vào những thập niên cuối thế kỷ trước, một mô hình phát triển mới đã hình thành với triển vọng sẽ trở thành một mô hình phát triển hoàn chỉnh đó là mô hình phát triển bền vững. Và thực tiễn toàn cầu hiện nay cho thấy, phát triển bền vững đã và đang trở thành mục tiêu phổ quát của nhiều quốc gia nhằm đảm bảo một sự phát triển vững chắc và lâu bền.
Đối với Việt Nam, những thành tựu to lớn đã đạt được trong khoảng thời gian 25 năm đổi mới vừa qua đã khẳng định con đường phát triển đúng đắn mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Vấn đề lúc này và cũng là một nhu cầu cấp thiết đó là phải xây dựng được một triết lý phát triển đúng đắn dựa trên tính bền vững (sustainability) để có thể đảm bảo cho một sự phát triển bền vững.
Trên con đường phát triển ở Việt Nam, một trong những nhân tố giữ vai trò quyết định đó chính là nguồn lực con người (human resources), bởi lẽ suy đến cùng, con người là chủ nhân sáng tạo ra lịch sử của chính mình thông qua hoạt động thực tiễn tích cực và năng động. Nhận thức được tầm quan trọng mang tính quyết định của nhân tố con người trong sự phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng đến việc làm thế nào để có thể phát huy nguồn lực con người một cách có hiệu quả nhất.
Nhằm thực hiện mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa[1], trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm phát triển, trong đó cần "phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển"[2].
Quan điểm trên, về thực chất, là sự tiếp nối tư tưởng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam xem con người là chủ thể và là nguồn lực quan trọng quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam; và tất nhiên mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người.
2. Định kiến giới với tư cách là rào cản đối với phát triển nguồn lực con người bền vững ở Việt Nam
Ở Việt Nam, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, do đó cần và hơn thế phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người, mọi giới trong xã hội vào việc lựa chọn các quyết định quan trọng. Lịch sử phát triển xã hội cho thấy, không thể có phát triển thực sự nếu vẫn còn một bộ phận nào đó của xã hội bị đối xử bất công hoặc bị loại trừ khỏi sự phát triển. Thêm nữa, để có những bước tiến vững chắc và lâu bền trên con đường phát triển đất nước thì nhất thiết phải phát huy mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực con người giữ vị trí trung tâm của sự phát triển. Thực tiễn đã khẳng định nguồn lực con người là yếu tố nội sinh năng động, quyết định đến chiến lược phát triển bền vững của một quốc gia. Sự phát triển chỉ có thể có được bền vững khi sự phát triển ấy hướng đến mục tiêu phát triển con người với tư cách là một thực thể tự do và hạnh phúc. Xuất phát từ ý hướng ấy, không khó để giải thích tại sao Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi việc thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ nhằm hướng đến công bằng xã hội và phát triển bền vững là một phần quan trọng trong chiến lược quốc gia về phát triển bền vững của Việt Nam. Nói cách khác, đảm bảo sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới là một yêu cầu cấp thiết để giải quyết bài toán về phát huy nguồn lực con người vì các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận một cách khách quan rằng, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được thì hiện nay, trong xã hội Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, mà một trong số đó là hiện tượng bất bình đẳng giới và tình trạng phân biệt đối xử đối với nữ giới đang tồn tại khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này vô hình trung đã gây cản trở nhất định đối với phát triển bền vững. Cố nhiên, bất bình đẳng giới và tình trạng phân biệt đối xử đối với phụ nữ chỉ là những hiện tượng bề nổi mà nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng ấy, theo chúng tôi, chính là định kiến giới. Do đó, muốn xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng giới và sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong hiện thực thì trước hết phải xóa bỏ định kiến giới trong quan niệm của mỗi con người và của toàn xã hội. Nói cách khác, không còn giữ định kiến giới thì việc thực hiện bình đẳng giới và thúc đẩy sự tiến bộ của nữ giới mới trở nên khả thi và triệt để.  Vậy định kiến giới là gì? Và định kiến giới bắt nguồn từ đâu?
Định kiến giới là một hiện tượng hiện diện khá phổ biến trong các xã hội nam quyền. Trong các xã hội ấy, bất cứ ở đâu và trong bất cứ mối quan hệ nào giữa nam giới và nữ giới, chúng ta đều có thể bắt gặp định kiến. Và hiển nhiên, những hình thức của định kiến giới trở nên rất khó phát hiện vì nó đã trở thành "lẽ thường" trong lối nghĩ của cộng đồng. Chúng ta đã sống trong một môi trường mà ở đó những khuôn mẫu giới tính sẵn có trở nên "tự nhiên", "bình thường" theo kiểu nam giới phải như thế này, nữ giới phải như thế kia. Đó chính là những khuôn mẫu giới đã trở thành định kiến mà mỗi người ít nhiều tiếp thu được, tuỳ thuộc vào giới tính của mình.
Trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, thuật ngữ "định kiến" được định nghĩa là "hiện tượng tâm lý tiêu cực đối với một nhóm xã hội, một cá nhân hay một sự vật, là hiện tượng nhất định có tính chất định hình, khó thay đổi bằng những thông tin, nhận thức duy lý... được củng cố, định hình dần và được biện minh là 'hợp lý' trong nội tâm"[3].
Luật Bình đẳng giới (2006) định nghĩa định kiến giới là "nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ"[4].
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu định kiến giới là một hiện tượng tinh thần bao gồm nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực được định hình và khó thay đổi của giới này đối với đặc tính tâm lý, vị trí, vai trò và năng lực của giới khác.
Cách hiểu này cho thấy, định kiến giới tác động đến cả nam giới và nữ giới, song trên thực tế, so với nam giới thì nữ giới là đối tượng chủ yếu chịu sự tác động thường xuyên của định kiến giới. Từ góc nhìn đó, chúng tôi sẽ tập trung phân tích về định kiến giới như là định kiến đối với nữ giới (chúng tôi nhấn mạnh)*.
Sở dĩ các quan niệm định kiến giới này thường thiên lệch bởi lẽ trên thực tế những đặc tính tâm lý, vị trí và vai trò ấy có thể đại diện cho cả nam giới và nữ giới, song lại thường bị "chỉ định, gán cho" nữ giới và điều này đã gây thiệt thòi cho họ xét theo một khía cạnh nhất định. Chính định kiến giới ấy đã hạn chế những tiềm năng to lớn của nữ giới, đồng thời cũng chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến một hiện tượng phổ biến khác đó là bất bình đẳng giới. Vì vậy, để có thể xây dựng được một xã hội tốt đẹp, công bằng và bình đẳng giới thì không thể không xóa bỏ định kiến giới.
Về sự tồn tại định kiến giới, trong lĩnh vực tâm lý học đã đưa ra những lý giải khác nhau.[5] Ở đây, chúng tôi cũng xin chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hình thành định kiến giới:
Trước hết, định kiến giới là sản phẩm đặc trưng của nền văn hóa nam quyền.
Sắc thái nam quyền trong văn hóa và xã hội Việt Nam bắt nguồn chủ yếu từ trong lịch sử và được phát huy quyền năng của nó nhờ sự hậu thuẫn mạnh mẽ của hệ tư tưởng Nho giáo. Được du nhập vào nước ta từ sớm, Nho giáo không chỉ dần khẳng định được vai trò quan trọng của nó mà còn lưu lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống xã hội và văn hóa của dân tộc ta. Trong một thời gian dài, những chuẩn mực lễ nghĩa mang sắc thái nam quyền của Nho giáo đã trở thành khuôn mẫu kiến tạo xã hội Việt Nam, theo đó vị trí và vai trò của nữ giới hầu như không được coi trọng nếu không muốn nói là bị khinh miệt. Hiện nay, dù Nho giáo không còn giữ vai trò hệ tư tưởng chính thống, tuy nhiên những yếu tố "nam quyền" của Nho giáo vẫn ảnh hưởng sâu đậm trong nền văn hóa Việt Nam. Bắt nguồn từ trong lòng nền văn hóa ấy, quan niệm "trọng nam khinh nữ" đã được gieo trồng, sinh sôi và bám rễ sâu trong suy nghĩ của con người Việt Nam (cả nam giới và nữ giới) và qua lăng kính ấy dần trở thành lối tư duy định kiến đối với nữ giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong bối cảnh giao lưu văn hóa ngày càng rộng mở và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ như là xu thế tất yếu đương đại, đất nước Việt Nam ngày hôm nay đã có quá nhiều sự đổi khác theo chiều hướng tiến bộ và văn minh hơn. Nền văn hóa Việt Nam thể hiện biện chứng đan quyện của tính hiện đại và tính truyền thống đan quyện vào nhau hợp thành chỉnh thể văn hóa Việt Nam. ễn tượng của sự phát triển ấy thì những yếu tố nam quyền và tâm lý gia trưởng vẫn còn in dấu khá đậm nét trong cộng đồng người Việt. Chính điều này đã góp phần không nhỏ vào việc duy trì sự tồn tại dai dẳng của định kiến đối với nữ giới trong xã hội Việt Nam
Thứ hai, định kiến giới hình thành từ sự vận động và biến đổi của phân công lao động xã hội xét từ góc độ giới.
Mặc dù huyền thoại về một xã hội mẫu quyền tồn tại vào buổi đầu của lịch sử, tuy nhiên bản thân lịch sử thì lại luôn vận động, biến đổi. Sự phát triển ngày càng cao của nền sản xuất xã hội đã dần làm thay đổi cấu trúc phân công lao động xã hội. Nếu như ban đầu, công việc sản xuất của nữ giới chiếm vị trí quan trọng thì càng về sau, với sự phát triển của công cụ lao động và sự biến đổi phân công lao động thì ưu thế về mặt sinh học đã làm cho công việc sản xuất xã hội của nam giới ngày càng trở nên quan trọng và theo chiều ngược lại, kinh tế gia đình của người phụ nữ trở nên kém quan trọng, theo đó nam giới từng bước chiếm giữ những công việc kinh tế chủ đạo, còn nữ giới dần bị đẩy về phạm vi gia đình với những công việc nội trợ hàng ngày. Chính việc nam giới đảm nhiệm những công việc lao động sản xuất chủ yếu, còn nữ giới giữ vai trò thứ yếu trong sản xuất đã làm thay đổi quan hệ trong gia đình, theo đó nữ giới cũng dần lệ thuộc vào nam giới. Sự lệ thuộc về mặt kinh tế như phân tích ở trên đây tất yếu sẽ dẫn đến sự lệ thuộc toàn diện của nữ giới vào nam giới.
Từ góc độ giới có thể khẳng định rằng, chính sự phát triển của nền sản xuất và sự biến đổi phân công lao động xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử đã góp phần hình thành quan niệm định kiến "chỉ định, gán cho" nữ giới do yếu kém, thụ động, hướng nội nên chỉ phù hợp với công việc nội trợ trong gia đình, còn nam giới với những đặc tính năng động, linh hoạt thích hợp với những công việc "đại sự".
Thứ ba, định kiến giới còn xuất phát từ tâm lý "an phận" của chính bản thân người phụ nữ.
Nếu như hai nguyên nhân trước mang tính khách quan dẫn đến hình thành định kiến đối với nữ giới thì ở nguyên nhân này, chính bản thân nữ giới phải chịu một phần trách nhiệm về tình trạng lệ thuộc của mình và cái nhìn định kiến của xã hội đối với mình. Với việc bị xã hội "chỉ định, gán cho" những đặc tính yếu kém, thụ động, thay vì nữ giới phải phấn đấu, nỗ lực để xóa bỏ tình trạng ấy thì dường như họ lại "đồng thuận" với định kiến ấy như một điều đương nhiên, chấp nhận đó như là số phận của mình.
Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang ra sức đẩy mạnh bình đẳng giới và nâng cao nhận thức của xã hội đối với nữ giới, qua đó đem lại nhiều khả năng và điều kiện để nữ giới có thể khẳng định và hiện thực hóa vai trò và vị trí của mình, nhưng dường như giới nữ vẫn chưa thực sự sẵn sàng nhập cuộc để khẳng định tiếng nói và khả năng của mình. Có thể thấy rằng, chính tâm lý "an phận" đang trở thành một đặc điểm tâm lý gây trở ngại không nhỏ đối với sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
Định kiến giới luôn tồn tại dai dẳng trong tâm lý của con người như một lề thói tư duy khó phai mờ. Vì vậy, xóa bỏ định kiến giới cần được nhận thức như là một công việc lâu dài, khó khăn và đầy thử thách đòi hỏi sự nỗ lực to lớn từ cả hai giới.
3. Xóa bỏ định kiến giới mở đường cho phát triển nguồn lực con người bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
Bối cảnh quốc tế hiện nay thực sự đem lại rất nhiều cho loài người khi đã mở ra cơ hội cho sự phát triển mang tính nguyên tử của nhiều quốc gia, đồng thời sự gia tăng về phạm vi và cường độ của các mối quan hệ liên văn hóa đã không ngừng xóa nhòa các ranh giới giữa các quốc gia, khu vực. Thế giới đương đại dường như được thu nhỏ lại dưới sức mạnh của quá trình toàn cầu hóa. Nhiều cách kiến giải khác nhau đã được đưa ra, song có một điểm thống nhất đó là nhân loại ngày nay không còn là tập hợp của các cộng đồng người xa lạ, khép kín và "xung đột" mà đã không ngừng hội nhập, xích lại gần nhau hơn, và cũng qua đó các giá trị nhân văn phổ quát cũng dễ dàng được chia sẻ.
Những thành tựu đạt được về mặt chính trị pháp lý quốc tế trong thế kỷ XX đã thừa nhận những giá trị nhân văn phổ quát về quyền con người và vị thế của người phụ nữ đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc xóa bỏ định kiến giới. Trong thế kỷ XX, phong trào nữ quyền ở phương Tây đã diễn ra mạnh mẽ hòa quyện với hàng loạt các phong trào chính trị xã hội khác, góp phần không nhỏ trong việc phá đổ thành trì kiên cố của chế độ nam quyền. Những giá trị cao đẹp của quyền con người và quyền phụ nữ đã từng bước được thừa nhận và được thể chế hóa trong các điều ước, các hiệp ước quốc tế. Chính những thành tựu to lớn này đã đem đến những thuận lợi cho việc nâng cao vị thế của người phụ nữ ở Việt Nam, qua đó từng bước đẩy lùi định kiến giới vốn bám rễ trong tầng sâu tâm thức và truyền thống của người Việt. Trước tiến bộ mà nhân loại đã đạt được về nữ quyền, người phụ nữ đã bắt đầu phản tỉnh về thân phận, vai trò và vị trí của mình trong gia đình và xã hội.
Tác động của bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay còn thể hiện ở sự biến đổi phân công lao động xã hội và làm thay đổi cấu trúc của gia đình ở Việt Nam, và qua đó góp phần mở ra cơ hội để nữ giới có thể tham gia vào nền sản xuất xã hội và phát huy cao nhất năng lực của mình. Đây là cơ sở để nữ giới có thể được nhìn nhận một cách khác đi theo hướng tích cực hơn.
Cùng với sự biến đổi cấu trúc gia đình thì mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng có sự biến đổi. Sức nặng của tôn ti, trật tự không còn nặng nề như trong các gia đình truyền thống mà thay vào đó là mối quan hệ bình đẳng hơn theo kiểu đề cao sự tự do cá nhân của mỗi thành viên.
Sức lan tỏa của toàn cầu hóa đã len lỏi vào từng tế bào của xã hội - gia đình, góp phần thức tỉnh người phụ nữ, làm cho họ thay đổi quan niệm về vai trò của vai trò, vị trí của chính mình. Nói rõ hơn, sự biến đổi nhanh chóng của đời sống hiện đại đã tạo ra những tiền đề thuận lợi để người phụ nữ tự tin bước ra xã hội như là một chủ thể thực sự. Thực tiễn đã cho thấy, hiện nay người phụ nữ ngày càng có vai trò quan trọng trong các lĩnh vực xã hội, tiếp cận thường xuyên hơn với các nguồn lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng đồng và thụ hưởng các lợi ích, phúc lợi gia đình. Thêm nữa, các thành viên gia đình và các dịch vụ xã hội cũng từng bước chia sẻ gánh nặng công việc nội trợ gia đình của người phụ nữ, góp phần tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ có thể tham gia vào sự phát triển xã hội và phát huy cao nhất tiềm năng to lớn của mình.
Có thể thấy rằng, bối cảnh quốc tế hiện nay đã mở ra những điều kiện thuận lợi để phụ nữ có thể vươn lên chứng minh tiềm năng to lớn của giới mình, qua đó tạo lập hình ảnh người phụ nữ hiện đại bản lĩnh, năng động và nhiệt huyết - người phụ nữ của thế kỷ XXI. Nếu được như thế, thiết nghĩ, định kiến đối với nữ giới sẽ dần bị xóa bỏ trong suy nghĩ của mỗi người và xã hội.
Nhận thức về định kiến giới đã khó, và để xóa bỏ nó thì lại càng khó hơn. Đó là một công việc lâu dài và nhiều thách thức. Ở đây, chúng tôi xin đề xuất một số phương hướng góp phần gỡ bỏ rào cản định kiến giới mở đường cho việc phát huy vai trò của nữ giới nói riêng, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và phát triển nguồn lực con người phục vụ quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam:
Một là, chú trọng nghiên cứu chuyên sâu kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, phổ biến rộng rãi những kiến thức tiên tiến về giới và về vai trò của phụ nữ nhằm nâng cao nhận thức đúng đắn của cộng đồng, của xã hội về đặc tính, vị trí, vai trò của nữ giới, từng bước đẩy lùi và xóa bỏ những định kiến sai lầm, thiên lệch về giới nữ, đảm bảo cho nữ giới có thể tham gia đóng góp cho sự tiến bộ xã hội một cách chủ động và bình đẳng.
Trong những thập niên qua, khoa học về giới cũng đã đạt được những bước thăng tiến đáng kinh ngạc với nhiều tri thức mới, nhiều cách tiếp cận mới nhiều khung lý thuyết mới về giới và phụ nữ, về vai trò của phụ nữ trong phát triển.[6] Những tiến bộ  đó sẽ chẳng là gì nếu không được phổ biến trong xã hội cho mọi người biết. Vì thế, các chuyên gia của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA) luôn kêu gọi "phải tuyên truyền mạnh hơn nữa giá trị, vai trò của phụ nữ trong gia đình, xã hội".
Để thực hiện ý hướng đó một cách hiệu quả thì cần thiết phải chú trọng hơn nữa vào hướng nghiên cứu chuyên sâu (tổ chức các Hội thảo quốc gia và quốc tế về chủ đề giới và vai trò của nữ giới trong phát triển bền vững, các chương trình nghiên cứu các cấp và hợp tác nghiên cứu về giới và phụ nữ) kết hợp với tăng cường phổ biến kiến thức tiên tiến về giới trong xã hội thông qua nhiều hình thức và biện pháp khác nhau (tuyên truyền phổ thông, kết hợp giáo dục gia đình - nhà trường - xã hội, các phương tiện truyền thông đại chúng...) để mọi người có thể tiếp thu một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất và hiệu quả nhất những thành tựu về khoa học, chính trị, pháp lý liên quan đến vấn đề giới và phụ nữ mà nhân loại đã đạt được, góp phần đem lại cái nhìn mới tích cực hơn về vai trò, vị trí và những đóng góp của nữ giới, qua đó từng bước đẩy lùi và xóa bỏ định kiến tiêu cực mà xã hội đã và đang "gán cho" người phụ nữ.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các thiết chế kinh tế, chính trị và mạng lưới chính sách xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa công việc gia đình nhằm một mặt, giảm bớt áp lực cho nữ giới từ những công việc gia đình; mặt khác, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để họ có thể khẳng định và phát huy cao nhất năng lực đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện tốt điều này sẽ góp phần huy động một nguồn lực đáng kể cho tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội bởi lẽ những đóng góp và tài năng của nữ giới Việt Nam đã được khẳng định trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam.
Ba là, khắc phục tâm lý an phận của chính bản thân người phụ nữ, xây dựng hình mẫu người phụ nữ hiện đại năng động, bản lĩnh, kết hợp hài hòa nhiệm vụ gia đình và trách nhiệm xã hội.
Người xưa từng nói "tiên trách kỷ hậu trách nhân", vì thế người phụ nữ trước khi muốn giới khác xóa bỏ cái nhìn định kiến đối với giới mình thì bản thân họ trước hết cần phải tự nhìn về mình một cách tích cực, tự tin và chủ động hơn, từng bước xóa bỏ tâm lý tự ti và thụ động. Việc duy trì tâm lý này trong một thời gian dài tất yếu sẽ tạo nên lối suy nghĩ an phận nơi người phụ nữ. Chính vì thế, người phụ nữ cần phải rũ bỏ những đặc tính an phận gây cản trở cho sự tiến bộ của mình để phấn đấu trở thành người phụ nữ hiện đại năng động, bản lĩnh, kết hợp hài hòa nhiệm vụ gia đình và trách nhiệm xã hội. Có như thế, định kiến giới mới có thể từng bước bị xóa bỏ và được thay thế bởi một cái nhìn khác tích cực hơn về giới nữ.
4. Kết luận
Định kiến giới hay cái nhìn thiên lệch về vị trí, vai trò của các giới, nhất là của nữ giới, tất yếu sẽ dẫn đến hệ quả tiêu cực đó là tình trạng bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Những hiện tượng đó gây không ít khó khăn cho việc phát huy nguồn lực con người vì mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam.
Viễn tượng giao lưu và hội nhập ngày càng mở rộng hiện nay góp phần tạo ra những điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể xóa bỏ định kiến giới như là một hiện tượng tâm lý - văn hóa đang cản trở đáng kể đối với việc phát huy nguồn lực con người, mở ra khả năng cho việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam.
Dù nghiên cứu về định kiến giới ở Việt Nam không còn là lĩnh vực mới mẻ, tuy nhiên soi chiếu sự tác động của định kiến giới đối với việc phát triển nguồn lực con người phục vụ cho phát triển bền vững ở Việt Nam là một việc làm cần thiết. Thiết nghĩ, các phương hướng được đề xuất trong bài viết được nhìn nhận như là một nỗ lực nhằm góp phần gỡ bỏ định kiến giới với tư cách là một trong những rào cản đối với việc huy động mọi nguồn lực xã hội vì mục tiêu xây dựng và phát triển một nước Việt Nam ngày càng mạnh mẽ hơn và bền vững hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
________________________

ERASING GENDER PREJUDICE WITH DEVELOPING SUSTAINABLE HUMAN RESOURCES IN VIETNAM IN GLOBALIZATION CONTEXT

Summary:
In current era, sustainable development is an essential orientation and an urgent requirement for many countries in the world to ensure a solid and stable development in both present and future.  For Vietnam, concept of sustainable development has been affirmed by Communist Party and Government, and has become an important content in national development strategy. Industrialization and modernization with motto of sustainable development needs and has to mobilize all resources in which human resources always plays a central role of the development, but gender bias as bias against female (we emphasize) has been becoming the barrier which significantly obstructs the developing of the human resources in Vietnam. In this paper, we would focus on analyzing gender prejudice, on which proposing some directions to eradicate gender prejudice step by step and clearing the path for the sustainable human resources development in Vietnam in present time.







TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.   Trần Thị Vân Anh (2000), "Định kiến giới và các hình thức khắc phục", Khoa học về phụ nữ, số 5, tr. 3-10.
2. Chiến lược quốc gia về phát triển vền vững, http://www.agenda21.monre.gov.vn
3.   Ngô Tuấn Dung (2003), "Định kiến giới từ góc độ tâm lý", Khoa học về phụ nữ, số 6, tr. 16-24.
4. Nguyễn Tấn Dũng (2011), "Nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011", http://www.chinhphu.vn.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Luật Bình đẳng giới (2008), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam trực tuyến, http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn/


[1] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 71.
[2] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 100.
[3] "Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam trực tuyến", http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/
[4]  Luật Bình đẳng giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 9.
* Vì nữ giới là đối tượng chịu sự tác động tiêu cực của định kiến giới thường xuyên hơn và phổ biến hơn so với nam giới. Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ nhấn mạnh định kiến giới như là định kiến đối với nữ giới chứ không bàn đến định kiến đối với nam giới.
[5] Xem thêm: Ngô Tuấn Dung, "Định kiến giới từ góc nhìn tâm lý học xã hội", Khoa học về phụ nữ, số 6, 2003, tr. 16-24.
[6] Trong lĩnh vực xã hội học đã xuất hiện những cách tiếp cận mới để lý giải về vai trò của phụ nữ và bình đẳng giới trong sự phát triển như Phụ nữ trong phát triển (Women in development - WID), Giới và Phát triển (Gender and Development - GAD).