TỪ
QUAN NIỆM VỀ LỐI VIẾT NỮ (L’ÉCRITURE FÉMININE) ĐẾN VIỆC XÁC LẬP MỘT PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TRONG PHÊ BÌNH NỮ
QUYỀN*
Hồ
Khánh Vân
1.Những
quan niệm về lối viết nữ (L’écriture
féminine)
Khi
tiếp cận bộ phận văn học nữ trên diện rộng, các nhà nghiên cứu và lý luận phê
bình đều nhận ra một cách viết nữ riêng biệt, có những đặc trưng khác với văn
học truyền thống do các cây bút nam giới ngự trị. Những nhà phê bình Pháp gọi
đấy là lối viết nữ (L’écriture
féminine), nghĩa là một phương thức tư duy và thể hiện văn bản
nghệ thuật mang phong cách nữ giới. Thế nhưng, khái niệm này vừa xuất hiện như
một nguyên lý tất yếu trên hầu khắp các sáng tác của phụ nữ, lại vừa tồn tại ở
ranh giới mong manh, mơ hồ của khoa học và phi khoa học, hiện hữu và phi hiện
hữu, khả tri và bất khả tri. Sự cảm nhận về lối viết nữ là một cảm nhận khoa
học khá rõ ràng và mạnh mẽ, tuy vậy, để lý giải logic và khách quan, để đi đến
tận cùng căn nguyên cốt lõi của lối viết nữ ấy thì không phải là một điều dễ
dàng, rành mạch. Thậm chí, như chúng tôi đã trình bày, nhiều nhà phê bình nữ
quyền vẫn băn khoăn và đặt ra câu hỏi là có một lối viết nữ thực sự hay không?
Và có thể có một nền văn học nữ tự trị hay không?
Các
nhà phê bình nữ quyền phân tâm học và giải cấu trúc của Pháp, tiêu biểu là
Hélène Cixous, có một quan niệm rõ ràng về lối viết nữ.
Điểm
trọng tâm trong lý thuyết nữ quyền của Cixous là mối quan hệ giữa giới tính và
diễn ngôn, từ đó hình thành nên ý niệm về phong cách tu từ riêng của nữ giới,
về một lối viết nữ (L’écriture
féminine). Từ những năm 1970, bà đã thể hiện tư tưởng của mình
trong các tác phẩm như Một
chuyến đi (Sortie), Tiếng
cười nàng Medusa (The laugh of the Medusa) và Đến để viết (Coming to
writing). Nhà phê bình nữ này khẳng định rằng suốt nhiều thế
kỷ qua, người phụ nữ hoàn toàn vắng bóng trong hoạt động diễn ngôn. Họ không
được bộc lộ suy nghĩ, lời nói của mình, không được tạo ra mối quan hệ tương tác
để hình thành nên sự giao tiếp với các cá thể xã hội. Vì vậy, thế giới bên
trong của nữ giới hoàn toàn khép kín và họ cũng bị cấm vận với cuộc sống xã
hội. Cixous nói một cách thẳng thắn rằng sự ngây thơ của người phụ nữ đồng
nghĩa với sự ngu dốt khi những tri thức đời sống và khoa học hoàn toàn kín bưng
trước con mắt của phái nữ.
Hơn
nữa, đến thời hiện đại, khi người phụ nữ được nói và viết một cách công khai,
thì họ lại vay mượn lối nói của nam giới chứ không có một hệ thống tu từ đặc
trưng của giới mình. Ngôn ngữ và giới tính chỉ có một mối quan hệ lỏng lẻo và
bị những quy luật của nam giới chế ngự. Cixous viết rằng: “Nhìn lại những câu chuyện được kể trong điện
ảnh và văn học, chúng ta thấy rằng tất cả đều được thể hiện từ góc nhìn của nam
giới” (1). Trong nhiều
tiểu luận, bà luôn khẳng định phụ nữ phải có hệ thống ngôn ngữ riêng phù hợp
với bản thể giới tính của họ, để biểu đạt những đặc thù riêng biệt của mình mà
giới khác không có. Cixous cũng nhấn mạnh rằng cái bà muốn xác lập và tựa vào
là tính không cân xứng giữa hai giới chứ không phải thứ bậc của giới này đối
với giới kia. Vì vậy, trong Tiếng
cười nàng Medusa, bà đã phủ định hệ thống nhị nguyên mang tính
thống trị phân chia các cặp khái niệm: đồng
nhất/khác biệt, con người/tự nhiên, trật tự/hỗn độn, hoạt động/thụ động, ngôn
ngữ/im lặng, hiện diện/vắng mặt, sáng/tối, nam giới/nữ giới thành
những đối cực tích cực và tiêu cực do nam giới xác lập và in hằn trong tư tưởng
của xã hội phụ quyền. Theo sự phân định này, phụ nữ luôn ở vị thế bên dưới và
đối lập với nam giới.
Cuốn
tiểu luận nổi tiếng Tiếng
cười nàng Medusa ra đời vào năm 1975 của Hélène Cixous dùng hình
tượng nhân vật Medusa, người đàn bà tóc rắn có ánh nhìn làm đàn ông hóa đá
trong thần thoại Hy Lạp, làm hình tượng ẩn dụ để thể hiện quan niệm của mình về
ngôn ngữ văn chương và hoạt động viết văn của nữ giới. Bà phản bác lại
kiến giải của Freud cho rằng tóc rắn là hình ảnh của dương vật và Medusa là
người đàn bà có nhiều dương vật, khác với phụ nữ, theo định nghĩa của Freud,
vốn là những kẻ mất chim, kẻ bị thiến hoạn. Vì vậy, hình tượng Medusa thể hiện
nỗi sợ bị thiến của phụ nữ. Sự diễn giải của Freud mang đậm thiên kiến của cái
nhìn duy dương vật, đặt nam giới vào trung tâm và định nghĩa tất cả mọi sự tồn
tại bằng biểu tượng giới tính của nam giới là cái dương vật. Hélène khẳng định
rằng thân thể và tính dục của phụ nữ không có mối quan hệ với sinh thực khí của
nam giới, mà trước hết, khoái cảm nhục thể cũng như thân xác người phụ nữ tồn
tại bằng chính nó, là cái tự nó, là cái “tôi” chủ thể của giới nữ.
Từ
khởi điểm lập luận đó, Hélène Cixous diễn giải quan điểm của mình về sự hình
thành và đặc trưng của lối viết nữ. Với bà, điều quan trọng đối với lối viết
riêng của nữ giới không phải là chữ, là ngôn từ, không phải là sự phát minh ra
những ký hiệu biểu đạt mới, mà là “cá
nhân người nữ phải viết chính mình, phải khám phá cho riêng mình cơ thể mình
cảm thấy như thế nào, và làm sao để viết về thân thể ấy trong ngôn ngữ. Rõ ràng
hơn, phụ nữ phải tìm ra dục tính của mình, dục tính chỉ bắt nguồn từ thân thể
của họ, và tìm cách viết về khoái cảm ấy”(2.) Đồng
thời, bằng lối biểu đạt đặc thù, người phụ nữ viết văn sẽ phá vỡ cấu trúc và
trật tự những biểu tượng được xác lập và cố định trong diễn ngôn nam giới.
Như
vậy, các nhà phê bình nữ quyền Pháp cho rằng cần phải triệt tiêu hẳn cái nhìn
mang tính đối lập dựa trên những cặp phạm trù đối nghịch: nam tính (masculinité), nữ tính (féminilité) và lưỡng tính (bisexualiteu). Việc thiết lập sự
đối nghịch này vô hình trung dẫn đến hệ quả là cái này sẽ xóa bỏ cái kia, phủ
định cái kia. Trong khi đó, những phạm trù này vẫn song song tồn tại. Lịch sử
loài người đã diễn ra với hiện thực nam giới áp chế nữ giới kéo dài suốt hai
mươi thế kỷ dài và kiến tạo một nền văn hoá duy dương vật có tính thống trị
tuyệt đối. Chính vì vậy, khi cầm bút sáng tác, người phụ nữ viết bằng thế nhị
nguyên, vừa mang những giá trị nam giới cố định đã trở thành những nền tảng và
nguyên tắc chung cho cả loài người, vừa bộc lộ những đặc tính riêng của nữ
giới. Ngôn ngữ viết của họ sẽ là ngôn ngữ trở về với bản thể Mẫu từ thời kỳ
tiền Oedipe khi đứa trẻ chưa tách rời khỏi người mẹ và nhận thức về chính bản
thân mình.
Trong
khi đó, phê bình nữ quyền Mỹ mở lối đi khai phá vào một nền mỹ học nữ. Dựa trên
tư tưởng và đặc tính của nữ giới, họ đặt ra mục đích khắc sâu sự hình thành một
lối viết nữ trong những diễn ngôn sáng tác và phê bình của phụ nữ:
Chỉ
có thể nhận thức và thể hiện người phụ nữ bằng việc yêu cầu một phong cách văn
chương mang tính phản ánh, bộc lộ rõ và biểu trưng cho đặc tính tư tưởng của
chúng ta, một phong cách đứt đoạn và nối tiếp khác biệt với phong cách phức
tạp, phụ thuộc và tuyến tính của phong cách truyền thống. (3)
Cũng
có cùng chung một ý hướng, các nhà phê bình nữ quyền ở Ý đã khảo sát sự khác
biệt giới tính trong hệ thống từ ngữ, ngữ pháp, cấu trúc và cách thức diễn đạt…
Họ xem đấy là một cuộc cách mạng nhằm lật đổ các quan niệm và giá trị cũ, tạo
dựng nên một nền diễn ngôn độc lập cho người phụ nữ cầm bút: “Một trận chiến vì lẽ phải của sự biểu lộ, của
ngôn từ, vì quyền tự do được khẳng định bản thân và được định đoạt cho chính
mình”(4). Một nữ nhà văn đã từng trăn
trở tìm kiếm một hệ ngôn ngữ riêng để diễn tả những trạng thái, những ý niệm
của nữ giới mà cái áo ngôn từ vốn có trở nên cũ và chật hẹp, không còn khả năng
dung chứa và chuyển tải nổi:
Khi
tôi muốn viết về sự nhạy cảm, những trải nghiệm và khuynh hướng phê bình của
người phụ nữ thì tôi không thể tìm ra được những từ ngữ… Bây giờ tôi chỉ có thể
bắt đầu chú trọng một cách có hệ thống vào những thành kiến giới tính trong
ngôn ngữ, vào ngôn ngữ nữ và văn học nữ, tôi chỉ có thể bắt đầu bằng sự thuật
lại cuộc sống của người phụ nữ.(5)
Nhà
phê bình người Pháp Béatrice Didier cho rằng sự tác động của bối cảnh lịch sử,
xã hội đến quá trình sáng tác vô cùng lớn lao nên không thể nhìn nhận một cách
tổng quan toàn bộ tác phẩn của các tác giả nữ thuộc những gian đoạn lịch sử,
những bối cảnh xã hội khác nhau. Chính vì vậy, Béatrice Didier không quan niệm
văn học nữ như một nền văn học chiều dài lịch sử riêng biệt. Tuy nhiên, nữ phê
bình gia chuyên nghiên cứu về Stendhal và George Sand này lại thừa nhận có sự
tồn tại của cái gọi là “văn
viết nữ” (L’écriture-femme)
và lấy khái niệm này làm tựa đề cho tập tiểu luận của mình. Béatrice Didier đã
phân tích những đặc trưng riêng biệt trong sáng tác của nữ giới trên các phương
diện: thể loại (thường thiên về tự truyện), hệ đề tài (thời thơ ấu, người mẹ),
phương thức sáng tác (gắn liền với thế giới cảm xúc phong phú) và cấu trúc tác
phẩm (cấu trúc thời gian gẫy khúc, đứt đoạn và đan xen theo chu kỳ)…
Theo
quan điểm của Elaine Showalter, nhà phê bình nữ quyền hàng đầu của Mỹ, mỹ học
nữ là một hệ thống có cơ sở hình thành nền tảng nhưng có cái gốc tồn tại non
yếu trầm trọng để có thể đứng vững, đặc biệt là khi nghiên cứu khoa học đòi hỏi
hệ thống này phải minh chứng bằng thực nghiệm. Julia Kristeva thể hiện rõ
khuynh hướng phủ nhận việc xác định sự khác biệt giới trong văn phong: “Không có bất kỳ điều gì thuộc những tác phẩm
đã xuất bản trong cả quá khứ và hiện tại của nữ giới có thể đưa chúng ta đến sự
khẳng định quả quyết rằng đó là một lối viết nữ”(6.)
Đây
cũng là một vấn đề thu hút sự chú ý của những người làm công tác văn học ở Việt
Nam như một phản ứng tự nhiên, bởi một nguyên nhân cơ bản: khi nói đến văn học
nữ, thì trên quan điểm giới tính, phải luôn có sự phân định những điểm khác
biệt so với văn học nam. Trong cuộc trao đổi về Phụ nữ và sáng tác văn chương (Tạp chí Văn học, số 6, năm 1996),
Vương Trí Nhàn nhấn mạnh đến đặc tính của người phụ nữ và lý giải đấy là nguyên
nhân tác động đến phạm vi nội dung hiện thực thường được tái hiện trên trang
viết của họ:
Hình
như do sự nhạy cảm riêng của mình, phụ nữ bắt mạch thời đại nhanh hơn nam giới.
Họ luôn gần với cái lỉnh kỉnh, dở dang của đời sống. Mặt khác, với cái cực đoan
sẵn có – tốt, dịu dàng, rộng lượng thì không ai bằng, mà nhỏ nhen, chấp nhặt,
dữ dằn cũng không ai bằng - từng cây bút phụ nữ tìm ra mặt mạnh của mình khá sớm, định
hình khá sớm.(7)
Trong
một cuộc phỏng vấn, các nhà văn nữ của văn học hiện đại Việt Nam cũng đã thể
hiện những tuyến quan điểm khác nhau. Y Ban, Hoàng Thị Bích Ti và Vũ Quỳnh
Hương cho rằng không có khái niệm gọi là dòng văn học nữ hay lối viết nữ và khi
định danh như vậy thì cũng đồng nghĩa với việc phân biệt giới tính trong văn
học. Sự phân biệt này lại có khuynh hướng tương đương với mọi phân biệt bất
bình đẳng giới khác mà người phụ nữ đã hứng chịu trong trạng thái bị khinh rẻ
và chối bỏ xuyên suốt hàng thế kỷ.
Ở
phía đối lập về cách nhìn, Võ Thị Hảo, Lê Thị Huệ, Trần Thùy Mai, Trần Thị
Trường khẳng định có một lối viết riêng biệt của nữ giới, thậm chí rất đậm nét
ở cả mục đích viết, phương thức diễn đạt, nghệ thuật xây dựng tác phẩm, quan
niệm và cách cảm nhận về thế giới và con người… Nhà văn Lê Thị Huệ khẳng định
động lực sáng tác của mình như một sự kháng cự đối với nền văn học nam giới áp
đảo đã đặt ra những tiêu chuẩn mặc định để phán quyết sản phẩm tinh thần của
phụ nữ bằng những suy nghĩ bộc trực của văn nói, chân thành và khá quyết liệt:
“Một trong những lý do tôi cầm bút có lẽ vì đã
phải đọc quá nhiều tác phẩm do đàn ông viết.
Thuở
còn học trung học tôi thường tự hỏi là tại sao mình phải học đi học lại những
câu thơ của Nguyễn Công Trứ. “Chí làm trai dọc ngang ngang dọc. Nợ tang bồng
vay trả trả vay”. Tôi thấy tôi chẳng dính tí xíu nào vào trong đấy cả. Nghĩa là
tác giả viết những câu thơ ấy cho các độc giả nam của ổng. Tôi là con gái đâu
có được xơ múi gì trong bài thơ trên sao lại bắt tôi học thuộc và bình đi bình
lại hoài vậy“. (8)
Thể
hiện một cách nhìn khác, một số nhà văn khẳng định mỗi tác giả đều có một phong
cách riêng, một lối viết riêng và giới tính của người viết không phải là vấn đề
quan trọng.
Ngô
Thị Kim Cúc cho rằng: “mỗi
nhà văn đều có cách viết, cách diễn đạt mang dấu ấn riêng của mình, dù là
nam hay nữ” và khi nhà văn nữ có ý thức, có quan điểm riêng
về giới thì “tự thân tác phẩm sẽ bộc lộ
những gì tác giả muốn gởi gắm. Điều này cộng với một số yếu tố như tâm lý, cái
nhìn khác biệt của phụ nữ có thể khiến dễ lộ những dấu hiệu riêng được hiểu là
“cách viết nữ “”(9)
Nguyễn
Thị Minh Ngọc đem trải nghiệm sáng của cá nhân để làm điểm tựa cho cái nhìn
không nhấn mạnh trọng tâm giới tính của mình: “Khi viết, ít khi tôi phải tự nhắc mình rằng mình đang là một phụ
nữ nên chẳng phải dè chừng đến phái nam, và càng không cố tìm cho ra một “cách
viết nữ”. Theo tôi thì có những con người hay cách viết nhân hậu, độc ác, sắc
sảo, khờ khạo, lừa đảo, trung thực …. không phân biệt nữ, nam …” (10).
Nhìn
chung, các nhà văn dù thể hiện quan niệm nào, thậm chí cả quan niệm cho rằng
không có khái niệm gọi là văn học nữ hay cách viết nữ thì họ, đứng từ phía
người sáng tác, cũng bộc lộ sự tri nhận nhất định về đặc trưng riêng của người
phụ nữ khi cầm bút. Như Y Ban, dường như phủ định khá dứt khoát: “Theo tôi không có dòng văn học nữ”
nhưng vẫn chỉ ra điểm nổi bật của thiên tính nữ trong sáng tác văn học khi đề
cập đến “sự tinh tế và sâu sắc nổi trội”
của họ (11).
Cũng
như nhà văn Hoàng Thị Bích Ti, dù chỉ đặt ra một giả định về sự tồn tại của
khái niệm này và lý giải bằng cách đơn giản hoá lối viết nữ khi chỉ quy về cách
thức tư duy nghệ thuật khác biệt về nhân vật và cốt truyện của nhà văn nữ so
với các đồng nghiệp nam:
“Nếu trong văn phong có biểu hiện được một cách
viết nữ thì đó cũng là một sự dẫn nhập tự nhiên trong lối suy nghĩ về nhân vật
hay cốt truyện mà thôi. Đối với tôi, điều quan trọng là mỗi một nhà văn phải có
một cái riêng, một cách viết riêng “personal style”” (12)
thì
vẫn cho thấy rằng “sự dẫn
nhập tự nhiên” ấy là một yếu tố thuộc tính để định hình nên phương
thức sáng tác của nữ giới.
Theo
chúng tôi, những tuyến quan niệm trái ngược trong cách nhìn nhận của các tác
giả về vấn đề này nảy sinh từ nguyên nhân các tác giả chưa có sự thống nhất
trong cách hiểu về các khái niệm. Ở đây tồn tại sự lẫn lộn giữa cách hiểu thông
thường và cách hiểu khoa học, thậm chí còn có sự đánh tráo giữa những khái niệm
cơ bản như lối viết nữ và phong cách sáng tác của cá nhân nhà văn, quan niệm
giới nhìn từ giá trị nội tại và quan niệm giới nhìn từ giá trị xã hội. Chính vì
vậy, họ đặt lối viết nữ trong mối tương quan với những khái niệm không cùng một
hệ quy chiếu. Nhà văn Trần Diệu Hằng cũng đã “cảnh tỉnh” vấn đề hiểu cho đúng khái niệm rồi mới quan
niệm về khái niệm ấy như là hạt nhân cơ sở cho mọi lý giải:
“Phần riêng tôi, hiện cũng đang tìm hiểu và suy
nghĩ về vấn đề gai góc này khi chạm vào cụm từ “woman’s style, écriture
féminine” được hiểu theo một lối diễn giải khá chuyên môn, một khái niệm mới mẻ
trong lý thuyết văn học nữ quyền hiện đại. Vấn đề này cho đến hôm nay, sau khi
đã được những nhà nghiên cứu lý thuyết văn học phái nữ Pháp đưa ra từ
những năm cuối của thập niên 70, tuy không còn xa lạ đối với giới nghiên cứu
văn học Âu Mỹ nhưng theo chỗ tôi biết, nó còn khá xa lạ đối với giới nghiên cứu
văn học ta (cả trong lẫn ngoài nước)” (13).
2. Từ lối
viết nữ, xác lập một phương pháp nghiên cứu
trong phê bình nữ quyền
Theo
quan điểm riêng, chúng tôi thống nhất với cách hiểu của các nhà phê bình Pháp
khi nhấn mạnh tính nhị nguyên trong sáng tác nữ giới. Thứ nhất, cần có sự phân biệt
giữa cái khác biệt và cái mang giá trị. Khi nhìn về dòng
văn học nữ trong mối tương quan với văn học nam giới, việc nhận thức và phân
tích sự khác biệt là để xác định đặc trưng sáng tác của mỗi giới, nghĩa là giá
trị nội tại được tạo ra từ thuộc tính giới, gắn liền với thuộc tính giới. Điều
này không đồng nhất với giá trị được quy chiếu từ sự mặc định của quan niệm xã
hội về giới nhằm đề cao người nam và hạ thấp người nữ. Khác biệt và bất bình
đẳng là hai phạm trù khác nhau và chúng có mối liên hệ với nhau hay không còn
tùy thuộc vào điểm nhìn, vào phương diện nhìn nhận từ văn học hay từ xã hội,
hoặc cũng có thể từ những lĩnh vực hoạt động khác của con người.
Thứ
hai, sự khác biệt phải đặt trên
cái nền của sự tương đồng và những yếu tố nền tảng chung cho
cả hai giới. Một mặt, nam giới và nữ giới đều sở hữu những giá trị chung của
con người. Điều này làm nên những giao điểm trong sáng tác của họ. Mặt khác,
người phụ nữ đã sống trong môi trường văn hoá mang tính áp chế của nam giới và
nhiều nguyên lý nền tảng chung cho cả loài người đã được nền văn hoá ấy thiết
lập, như G. Jung đã từng nói rằng “uy
quyền của đàn ông” qua chiều dài lịch sử đã ngấm sâu đến mức
biến thành “vô thức tập thể”(14). Chính vì vậy, phụ nữ không thể thoát ly hoàn
toàn và đứt lìa hẳn với quá khứ, với hiện tại mà về cơ bản cũng là sự nối dài
của quá khứ với các giá trị kế thừa cố định. Khi đặt bút sáng tác, trên trang
giấy của họ xuất hiện đồng thời cái bóng riêng biệt của nữ giới trong cái bóng
lớn của môi trường văn hoá – xã hội.
Bên
cạnh đó, sự tồn tại của “lối
viết nữ” ấy không chỉ phụ thuộc vào ý thức của người sáng tác về
nó, mà quan trọng hơn, phụ thuộc vào nội tại thế giới tác phẩm mà các nhà văn
nữ đã làm nên. Tác phẩm, đó là nơi mà phương thức nghệ thuật sáng tạo của nhà
văn được thể hiện, bộc lộ, chứng minh sự hiện diện của mình. Hay nói cách khác,
chỉ có chính bản thân tác phẩm mới là thẻ căn cước cho mọi yếu tố thuộc về văn
học, như lý thuyết tiếp nhận – một hệ lý thuyết từng đưa văn bản tác phẩm vào
vị trí trung tâm trong mối quan hệ với người đọc và tạo ra cuộc cách mạng về
quan niệm tiếp nhận tác phẩm trong thế kỷ XX – đã khẳng định. Do đó, để tìm
hiểu về vấn đề này, ngoài việc dựa vào quan niệm sáng tác của nhà văn – như một
kênh thông tin, thì điều quan trọng là phải thực hiện một cuộc nội soi vào hệ
thống tác phẩm để tìm ra các đặc điểm thi pháp riêng của văn học nữ.
Từ
đấy, chúng tôi đề ra một phương pháp tiếp cận tác phẩm theo hệ trục của sự khác
biệt dựa trên nền tảng tương đồng, bao gồm những nguyên lý, những đặc trưng
chung của sáng tác văn học từ điểm nhìn giới tính. Nếu đi theo cách tiếp cận
truyền thống vốn tồn tại trong nghiên cứu văn học lâu nay là đặt tác phẩm dưới
ánh sáng của hai phương diện: giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật thì gần
như không soi rọi được sự khác biệt giữa hai bộ phận văn học phân chia theo
giới tính. Đặc biệt, khi nghiên cứu theo lý thuyết nữ quyền, phương pháp đọc
này không thể làm nổi rõ những đặc trưng của văn học nữ. Tác giả của công
trình Hồ Xuân Hương – Tiếp cận từ
quan điểm giới tính cũng đã có nhận xét tương tự khi tìm kiếm
một cách thức tiếp cận phù hợp với lý thuyết phê bình giới:
Bên
cạnh sự phân biệt hay và dở, trong văn chương còn có sự phân biệt về thể loại
sáng tác, giai đoạn sáng tác, thể tài. Những cách phân biệt này chủ yếu dựa vào
nội dung của tác phẩm để đánh giá tác phẩm trên hai phương diện giá trị nội
dung và giá trị nghệ thuật. Nghĩa là theo như cách phân biệt này nếu phản ánh
cùng một chủ đề như tả cảnh thiên nhiên hay miêu tả diễn biến tâm trạng thì
giữa tác phẩm của một tác giả là nam giới và nữ giới sẽ không hề có nét đặc
trưng cá biệt về giới.(15)
Như
vậy, nhìn từ phía văn học nữ, những nền tảng chung mà văn học truyền thống, văn
học nói chung tạo ra là thể, bao hàm những yếu tố, những phương diện, những
khái niệm, những dạng thức tồn tại của văn học, nghĩa là các thành tố tạo nên
sự hình thành và hiện hữu của tác phẩm. Trên cái thể ấy, văn học nữ bộc lộ tính
riêng biệt, đặc thù của mình. Tính là đặc trưng của thể tồn tại bằng một hàm
lượng khác, mang một sắc thái, trạng thái khác, một vị trí khác. Chẳng hạn như
yếu tố tâm lý và tính dục đã xuất hiện từ lâu trong văn học, nhưng chỉ dưới
ngòi bút của nữ giới, tâm lý và nhục cảm của người phụ nữ mới được miêu tả một
cách cụ thể, rõ rệt bằng chính nội tại tự thân của nó. Tương tự như vậy, lịch
sử văn học đã xây dựng hình tượng người phụ nữ và nhiều thời kỳ, hình tượng này
nằm ở vị trí trung tâm trong cảm hứng sáng tác của thời đại, thế nhưng, đến
dòng chảy của văn học nữ, hình tượng này mới đứng ở vị trí trọng tâm, mới bộc
lộ những yếu tố bên trong thuộc về chính nó và xuất hiện với mật độ dày đặc
trong văn học. Về tính chất, hình tượng phụ nữ trong văn học của nam giới mang tính hình tượng – biểu tượng hơn
là hình tượng – bộc lộ.
Ngoài
ra, chúng tôi cũng đề nghị một khuynh hướng phối hợp chặt chẽ các phương pháp
trên với phương pháp nghiên cứu liên ngành, nhìn vấn đề từ nhiều nguồn tri thức
trong nghiên cứu sinh học, xã hội học, văn hoá học, triết học… để tiếp nhận tác
phẩm. Có thể nói rằng đây là một công cụ tiếp cận đa dụng cụ, đòi hỏi người vận
dụng phải có kiến thức nền tảng và kiến thức chuyên ngành vững chải, uyên thâm.
Trên
đây là những phác thảo mang tính định hướng. Bằng phương pháp này, chúng tôi
mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào lĩnh vực nghiên cứu văn học nữ giới từ lý
thuyết phê bình Nữ quyền, để cùng đạt đến mục đích mà nhà văn Lê Thị Huệ đã nói
đến:
“Tôi tin nghệ thuật do người nữ tạo ra khác
nghệ thuật do người nam chế tạo. Phải có những người đọc tinh tế, những nhà phê
bình sáng, mới nhận ra được nghệ thuật sáng tạo bởi người nam và nghệ thuật
sáng tạo bởi người nữ khác nhau ở những điểm nào”(16).
3. Một
số phương diện đặc thù của lối viết nữ
Với
trình độ còn hạn hẹp của người thực hiện bài viết này, việc đạt đến các vấn đề
cần nghiên cứu một cách toàn diện, đầy đủ bằng hệ thống phương pháp này là một
tham vọng quá sức. Trong khả năng ít ỏi của mình, chúng tôi chỉ giới hạn khảo
sát và trình bày một vài phương thức tư duy nghệ thuật đặc thù của các tác giả
nữ. Những phương diện mà chúng tôi lựa chọn để trình bày những yếu tố hình
thành nên lối viết nữ là: phương
thức tư duy nghệ thuật mang tính tự thuật, lối viết thân thể, quan hệ giữa tính nữ với sáng tác văn học, suy
nghĩ lùi về người mẹ và bi kịch vỡ mộng gắn liền với hình tượng người đàn ông
bất toàn với các lý do sau:
+ So
với các tác giả nam và nền văn học của nam giới, đây là những đặc trưng riêng
biệt và nổi bật của các nhà văn nữ cũng như của sáng tác nữ giới.
+ Đây
là những phương diện có tính xuyên suốt từ chủ thể sáng tác đến nội tại tác
phẩm, kết dính nhà văn và tác phẩm trong mối quan hệ chặt chẽ. Từ đó, làm sáng
tỏ đặc trưng của chủ thể sáng tạo cũng như đặc trưng của tác phẩm.
+ Cũng
từ những phương diện này, hệ thống tác phẩm được tiếp cận từ phương diện nội
dung đến phương diện nghệ thuật. Hẳn nhiên, trên một góc hẹp, phương thức tiếp
cận này chỉ có thể khám phá một mảng nội dung và một số yếu tố nghệ thuật đặc
thù chứ không thể bao quát toàn bộ sáng tác trên diện rộng. Qua đấy, phân tích
và kiến giải những điểm khác biệt đặc trưng so với sáng tác của nam giới.
3.1.Tự
thuật – một mô thức tự sự đặc thù của văn học nữ
Trên
hầu khắp những trang viết của các tác giả nữ, người tiếp nhận luôn nhìn thấy sự
hiển hiện thường trực của chân dung cuộc sống cá nhân nhà văn. Lý luận văn học
gọi đây là hiện tượng “tự
ăn mình”. Hầu hết tiểu thuyết của các nhà văn nữ đều là tiểu thuyết
tự truyện (autofiction).
Khi Jane Eyre của
Charlotte Bronte xuất hiện, người ta gọi đó là “một cuộc cách mạng của tiểu thuyết tự thuật” trong
thời đại Victoria
ở nước Anh(17). Người
tình (L’Amant) của
Marguerite Duras cũng là một tự truyện. Bà đã tiểu thuyết hoá một giai đoạn của
đời mình: thời thơ ấu ở Việt Nam
với mối tình đầu nhiều trắc trở.
Văn
học nữ thế giới đương đại có rất nhiều tiểu thuyết tự truyện. Các cây bút nữ
linglei của Trung Quốc gần như tái hiện chính mình trên trang sách, thậm chí
đưa tên mình thành tên tác phẩm (Điên
cuồng như Vệ Tuệ – Vệ Tuệ), đưa hình ảnh của mình thành ảnh bìa tạo
nên hiệu ứng tự truyện ngay từ yếu tố ngoài văn bản. Nhiều quyển tiểu thuyết
được đặt tên mang chất tự truyện như Tự
truyện chưa hoàn tất là câu chuyện về cuộc đời của tác giả
người Anh Alice A. Bailey, Từ
điển Trung – Anh cho người đang yêuđược Quách Tiểu Lộ sáng tác dựa
trên cuốn nhật ký viết trong những năm tháng sống tại London. Katarzyna
Grochola, nữ tác giả người Ba Lan, đã thuật lại toàn bộ đời sống tinh thần của
mình sau khi bị người chồng ruồng bỏ bằng chất giọng humour với Xin cạch đàn ông …
Khi
chọn những thể loại mang tính hư cấu cao là tiểu thuyết và truyện ngắn, và đưa
vào phương thức tự thuật, các nhà văn nữ bộc lộ rõ nhu cầu thể hiện bản thân.
Sự hòa trộn giữa hư cấu và phi hư cấu; sự khách quan hoá những yếu tố chủ quan
gắn liền với “cái tôi” tác giả;
việc nhào nặn những sự kiện hiện diện trong lý lịch cá nhân của nhà văn thành
các chi tiết nghệ thuật thẩm thấu qua tấm màn của tưởng tượng; cũng như tỉ lệ
và mật độ xuất hiện của yếu tố tự thuật trong hệ thống tác phẩm, đã tạo nên
những cấp độ tự thuật khác nhau.
Có
thể thấy rằng tự thuật là một thuộc tính của phương thức sáng tác văn học nữ.
Tự thuật xuất hiện ở hầu khắp các tác giả, các tác phẩm, chiếm đa phần diện
tích những trang viết ở những mức độ khác nhau, trong nhiều hình thức biểu hiện
đa dạng, phong phú. Theo Đặng Anh Đào, vào thế kỷ XIX, Flaubert, người tỏ ra
hiểu tâm lý phụ nữ qua Bà
Bovary, đã
nói: “Phụ nữ không viết được cái gì
khác mình, điều này khiến tiểu thuyết của họ đọc không hay”(18).
Thế nhưng, bất chấp việc Flaubert nhìn nhận đặc trưng này như một nhược điểm,
các tác giả nữ vẫn xuất hiện ngày càng ồ ạt và khẳng định dần vị thế của họ
trên văn đàn. Và Đặng Anh Đào khẳng định: “Phụ
nữ thường mạnh ở cái chỗ là họ đưa tất cả cuộc đời và tâm hồn họ vào trang sách
hoặc nói như phương Tây người ta vẫn nói, họ tự ăn mình”(19). Những cách lý giải này dựa trên đặc điểm nam
tính, nữ tính được thể hiện trong tác phẩm của người viết.
Theo
chúng tôi, không thể lý giải vấn đề này chỉ dựa trên một phương diện, một điểm
nhìn, cũng như không thể căn cứ vào một hay một số cá nhân nhà văn riêng lẻ, vì
như vậy sẽ dễ rơi vào sự biện giải dựa trên hiện tượng cá biệt chứ chưa đi vào
bản chất của vấn đề. Bên cạnh đó, khẳng định tự thuật như là một phương thức tư
duy nghệ thuật của nữ giới không có nghĩa là phủ định sự xuất hiện của phương
thức này trong sáng tác của các tác giả nam. Trọng tâm của vấn đề nằm ở chỗ là:
đối với bộ phận văn học của giới nào, phương thức này trở thành thuộc tính sáng
tác cơ bản, trở thành một đặc trưng nhìn từ góc độ của sự khái quát hoá. Theo
chúng tôi, cần phải phân tích những căn nguyên tạo nên phương thức tự thuật
nhằm nối dài hiện thực đời tư cá nhân trong tác phẩm, như là một phương thức tư
duy bản chất của các tác giả nữ, từ phương diện con người bao gồm các yếu tố xã
hội, sinh học và tâm lý đến phương diện văn học bao gồm các yếu tố nội tại của
tác phẩm và lịch sử văn học nữ thì mới có thể đưa ra những lý giải mang tính
khoa học và toàn diện.
3.2.Yếu
tố tính dục và lối viết thân thể (Body writing)
Một
tác phẩm có đề cập và mô tả yếu tố tính dục chưa hẳn là tác phẩm được sáng tác
theo lối viết thân thể. Điều đó có nghĩa là, tính dục và thể xác con người
không chỉ là hiện thực được miêu tả, mà còn chứa đựng và chuyển tải quan niệm
nghệ thuật, bộc lộ nhân sinh quan, thế giới quan của nhà văn về đời sống, đồng
thời, vừa là phương thức nghệ thuật chủ đạo, xuyên suốt và thống nhất được sử
dụng để tái hiện hiện thực đời sống ấy. Khi đó, lối viết thân thể mới thực sự
được hình thành.
Các
nhà phê bình nữ quyền phương Tây đầu thế kỷ XX với các khuynh hướng nữ quyền
hiện sinh, nữ quyền hậu cấu trúc, nữ quyền hậu hiện đại… đã nêu cao chủ trương
người phụ nữ viết về chính thân thể của mình. Họ cho rằng toàn bộ nền tư tưởng
phương Tây được xác lập dựa trên “sự
áp bức mang tính hệ thống của nam giới đối với đời sống của nữ giới”.
Nhân loại suốt bao thế kỷ qua vừa tồn tại trong sự thống trị của nam quyền, vừa
kháng cự lại thể chế ấy. Trong tác phẩm Tiếng
cười nàng Medusa, Hélène Cixous đã thúc giục người phụ nữ cầm bút:
“Hãy kiểm soát thân thể mình
cùng một lúc với việc kiểm soát hơi thở và lời nói. Hãy viết về chính bản thân
bạn. Thể xác cũng cần phải được lắng nghe”(20). Khuynh hướng này đã tạo nên ý niệm của các nhà
phê bình nữ quyền về lối viết thân thể (body
writing) trong văn học phương Tây. Cũng tương tự như vậy, văn học
Trung Quốc có các khái niệm “thân thể tả tác” (thân thể sáng tác) do Cát Hồng Binh đưa ra và khái
niệm “tu từ học thân thể”,
gắn liền với trào lưu sáng tác linglei bùng nổ trong nền văn học nước này từ
thập niên 70 của thế kỷ XX.
Nhìn
một cách khái quát, có thể thấy rằng các nhà nữ quyền Pháp đều gặp gỡ nhau ở
quan niệm đưa những trải nghiệm thể xác của người phụ nữ để kháng cự lại những
biểu tượng duy dương vật trong tư tưởng phương Tây. Người phụ nữ cần phải khám
phá và bộc lộ mình, mà trước hết là khám phá và bộc lộ thể xác, yếu tố đầu tiên
và quan trọng nhất của bản thể tính nữ. Bởi lẽ, “bản năng giới tính bắt đầu bằng thân thể”(21), bằng sự khác biệt trên phương diện sinh học và
tính dục. Như vậy, thân thể và tính dục không chỉ là đối tượng của phản ánh, mà
còn là phương tiện để phản ánh, để người phụ nữ khám phá và tái hiện thế giới
nội tại của mình.
Một
mặt khác, các nhà nữ quyền cũng nhấn mạnh đến khía cạnh tâm lý của nữ giới. Họ
cho rằng, trong cái khuôn kiên cố của văn hóa và tư tưởng phương Tây, người phụ
nữ đã được hình thành và ngấm sâu bên trong họ thái độ khinh rẻ bản năng giới
tính của mình. Vì vậy, bên cạnh sự đối kháng lại những phạm trù duy dương vật
và nam giới trung tâm, nữ giới còn cần giũ bỏ thái độ sai lầm và đầy mặc cảm tự
ti đó đối với bản năng tính dục bên trong họ.
Đồng
thời, trong thực tiễn sáng tác và tiếp nhận văn học hiện nay, có nhiều người
quan niệm một cách đơn giản về lối viết thân thể, đưa khái niệm này xuống gần
với sự trình bày thân xác thuần tuý chứ không phải là sự mô tả thân thể mang
lại giá trị nhân sinh và thẩm mỹ. Trở lại sự trình bày tư tưởng của các nhà phê
bình nữ quyền, có thể thấy rằng cần phải xem đây là một phương pháp sáng tác
chứ không thuần là việc mô tả yếu tố tính dục như một tình tiết, một đơn vị
trần thuật đơn thuần trong tác phẩm. Thân thể – tính dục vừa là đối tượng phản
ánh, hiện thực được phản ánh, vừa là cách thức tìm kiếm và biểu đạt đặc trưng
tính nữ. Viết, không phải chỉ từ sự cảm thụ thân xác thuần tuý, mà còn tạo nên
cả hành trình tự cảm nghiệm bản thể của người phụ nữ, để tạo nên lịch sử sinh
tồn của riêng nữ giới như hành trình mà suốt mấy thế kỷ qua, các nhà văn (chủ
yếu là nhà văn nam) đã tạo lập để khám phá và bộc lộ cái nhìn về con người. Ở
phần kết của bài viết “Nhận
diện “thân thể sáng tác” trong văn học Trung Quốc đương đại”, tác
giả Nguyễn Văn Nguyên cũng đề cập đến vấn đề này và dẫn lời của Tạ Hữu Thuận,
nhà nghiên cứu ngữ văn và lý luận văn học người Trung Quốc cho rằng đó là “sự sai lầm to lớn đối với mỹ học cơ thể, hay
là sự giản lược hóa một cách thô bạo, để đến cuối cùng, cơ thể đã bị giản hóa
thành đại danh từ của giới tính và dục vọng. Cái gọi là “thân thể sáng tác”
cũng trở thành sự mở đường ào ạt cho giới tính và dục vọng”(22).
3.3.Mối
quan hệ giữa tính nữ và hoạt động sáng tác văn học
Trong
sáng tác của các nhà văn nữ, tính nữ được thể hiện trên ba phương diện: tính nữ
nơi chủ thể sáng tác, tính nữ nơi đối tượng phản ánh và tính nữ nơi thế giới
nhân vật. Cả ba phương diện này này luôn có sự tương tác với nhau làm thành thế
giới nghệ thuật mang đậm tính nữ, và đó là một khách thể nghệ thuật. Điều quan
trọng ở đây là việc nhấn mạnh sự khác biệt giới trong đặc tính bản thể ấy như
là một phương tiện để đi vào khám phá đặc trưng sáng tạo và thế giới nghệ thuật
của các tác giả nữ. Bản tính này chi phối năng lực và phương thức sáng tác của
chủ thể, đồng thời, cũng chính là nội dung đối tượng nhận thức mà họ hướng đến
khi tái hiện trên trang viết, tạo nên tính nữ đặc trưng trong thế giới tinh
thần của người phụ nữ viết văn.
Sự
hình thành tính nữ trong thế giới nghệ thuật diễn ra qua hai quy trình: Nhà văn
tiếp nhận thế giới mang tính nữ trong đời sống, với phạm vi chủ đề là cuộc sống
của người phụ nữ; sau đó, nhà văn phóng chiếu bản thể nữ tính của mình vào tác
phẩm. Vì vậy, nhìn từ phương diện giới, thế giới nghệ thuật hình thành trong
sáng tác nữ là một phức thể mang tính nữ. Đặc trưng bản thể này vừa là đặc điểm
của thế giới nghệ thuật, vừa là những yếu tố sinh thành chi phối toàn bộ thế
giới nghệ thuật ấy.
Đầu
thế kỷ XX, trong các bài viết đăng trên Phụ
nữ tân văn từ năm 1929 đến năm 1933, Phan Khôi đã nhấn mạnh
đến mối quan hệ giữa tính nữ và hoạt động sáng tác văn học, thể hiện trên hai
phương diện: Chủ thể của sáng tác và đối tượng của sáng tác. Trong cuộc trao
đổi ý kiến Phụ nữ và sáng tác văn
chương (Tạp
chí Văn học, 6/1996), các nhà phê bình và những người cầm bút
cũng dựa trên đặc trưng tính nữ để lý giải hiện tượng các nhà văn nữ xuất hiện
rầm rộ và nhanh chóng bắt kịp nhịp thời đại, đạt được những thành tựu mới mẻ
như hiện nay. Tuy nhiên, có thể thấy rằng, các nhà nghiên cứu chủ yếu nhìn tính
nữ trên phương diện chủ thể sáng tác và mối quan hệ với tác phẩm văn học.
Nhìn
chung, bản thể tính nữ đã tạo nên một thế giới nghệ thuật có tính bao trùm và
riêng biệt của các nhà văn nữ khi so sánh với văn học truyền thống. Cũng bằng
góc nhìn này, có thể thấy các nhà văn nữ khi cầm bút đã vừa tái hiện thế giới
hiện thực riêng, vừa thể hiện một thế giới quan, nhân sinh quan riêng biệt. Đi
sâu vào bản thể tính nữ, họ đã có một cái nhìn biện chứng mới mẻ về người phụ
nữ ở nhiều giác độ, nhiều góc cạnh mà văn học trước đây chưa chạm đến. Thực thể
người phụ nữ được đưa vào tầm ngắm thường trực của chiếc máy quay tinh nhạy, đặt
từ góc nhìn nội quan để thâu nhận từng chi tiết thuộc thế giới bên trong.
3.4
Hình tượng người mẹ và suy nghĩ lùi về người mẹ (Thinking
back through mother)
Đối
với văn học nữ, người mẹ không chỉ là đối tượng sáng tác, mà còn là cách thức
để nhà văn nữ tư duy, cảm nghiệm cuộc sống và nhận thức về bản thân. Một luận
điểm nổi tiếng của Virginia Woolf trong tập tiểu luận Căn phòng riêng đã thu hút
các nhà nghiên cứu, nhà phê bình trong suốt một trăm năm qua chính là phát kiến
về “sự suy nghĩ lùi thông qua người
mẹ”. Đây chính là vấn đề về lối viết nữ, về một dạng thức tư duy
đặc trưng của nữ giới. Theo Virginia, người phụ nữ gần như không có quá khứ.
Lịch sử của họ trống rỗng và không có bất cứ tài liệu nào lưu trữ những trải
nghiệm sống của giới họ. Vì vậy, để nhận thức thế giới và khám phá bản thể, họ
phải suy nghiệm từ đời sống của người mẹ, người phụ nữ trước họ mà họ có thể
chứng kiến, tìm hiểu và nhận thức.
“Sau lưng họ vắng bóng một truyền thống viết
văn, hoặc nếu có thì vô cùng ngắn ngủi và thiếu vô tư, và chẳng giúp ích gì.
Bởi nếu là phụ nữ, chúng ta nghĩ về quá khứ qua bà mẹ chúng ta chứ không ai
khác.”(23)
Trong
tập tiểu luận của mình, Virginia đã lý giải toàn bộ tình trạng nghèo nàn vật
chất dẫn đến sự đói khổ tinh thần và nỗi thiếu thốn tự do trí tuệ thông qua
việc quan sát đời sống của người mẹ. Từ đó, bà khái quát hóa thành quy luật
chung cho thân phận người phụ nữ. Sự suy ngẫm thông qua người mẹ cũng góp phần
lý giải nguyên do các nhà văn nữ thường hướng đến hình tượng người mẹ và thời
thơ ấu như là hệ đề tài đặc thù trong tác phẩm của mình.
Tác
giả Beth C.Schwartz đã ví von rằng, cũng như các thi sĩ đã từng tạo ra hình
tượng nữ thần thơ ca để lý giải cội nguồn cảm hứng linh thánh trong sáng tác
thơ ca của nam giới, thì giờ đây, từ cái nhìn của mình, Virginia đang tìm kiếm
một nữ thần thơ ca cho các nhà văn nữ. Hình tượng người mẹ là nơi lưu trữ ký ức
từ quá khứ và là nguồn gốc sản sinh cảm hứng cho các cây bút nữ, đóng vai trò
động lực hạt nhân của sáng tạo(24). Trong bài
viết về cuốn tự truyện Ngọn
hải đăng của Virginia, tác giả Maria Dibattista cho rằng
Virginia thiên về nhấn mạnh chức năng tạo nên nguồn cảm hứng sáng tạo hơn là
chức năng tiền thân của hình tượng người mẹ. Điều may mắn của người phụ nữ viết
văn là nữ thần thơ mang giới tính của họ và cội nguồn năng lượng sáng tạo thi
ca mang đậm thiên tính nữ. Ngoài ra, “suy
nghĩ lùi thông qua người mẹ” đặc biệt thu hút sự quan tâm của các
nhà nghiên cứu thuộc lĩnh vực phân tâm học từ góc độ mối quan hệ giữa người mẹ
và con gái, phức cảm Electra và cả từ khía cạnh đời tư của Virginia Woolf khi
bà vốn là đứa trẻ mồ côi mẹ từ năm 13 tuổi.
Nhà
phê bình nữ quyền Hélène Cixous cũng đưa ra khái niệm “mực trắng” để đề cập đến cội nguồn
sáng tác của nữ giới. Người phụ nữ viết văn bằng thứ mực chảy ra từ dòng sữa
mẹ. Người mẹ là gốc rễ của sáng tạo, là hình tượng mà qua đó, nữ giới có thể
nhận thức được bản thể giới tính và thân phận giới tính của mình. Sự trở về với
cơ thể người mẹ thể hiện tính không thể phân ly giữa cơ thể và đời sống của
những thân phận nữ giới.
3.5 Bi kịch vỡ mộng và hình tượng người đàn ông
bất toàn
Theo
thuyết phân tâm của Freud, phụ nữ được định nghĩa là người đàn ông bất toàn,
tức là kẻ bị thiến hoạn, không có dương vật. Dương vật trở thành biểu tượng
trung tâm của sức mạnh và giá trị. Trong văn học hiện đại, hình tượng người đàn
ông bất toàn lại thuộc về chính nam giới. Đó là cái nhìn của người phụ nữ về
người nam không toàn vẹn, trở nên khiếm khuyết, gây nên sự vỡ mộng ở nữ giới.
Với
cảm hứng sáng tác chủ đạo hướng về đề tài tình yêu, các nhà văn thường đặt nhân
vật người phụ nữ trong thế đối sánh với thế giới người nam. Khi bị đẩy vào bi
kịch, người phụ nữ nhận chân toàn bộ giá trị hiện thực bi đát của mối quan hệ
mà họ luôn tin rằng phải và chỉ có thể được tạo dựng bằng yêu thương, bằng sự
hy sinh tuyệt đối cho nhau. Người đàn ông luôn là kẻ gây ra nỗi đau và sự bất
hạnh, kẻ phản bội lại lý tưởng về tình yêu, về đời sống. Họ là những hình tượng
bất toàn trong thế giới bất toàn.
Bi
kịch người phụ nữ vỡ mộng trong một thế giới bất toàn này được lặp đi lặp lại,
trở thành điểm tương đồng trong cách thức tái hiện và quan niệm, lý giải đời
sống trong sáng tác của các nhà văn nữ. Đó vừa là nỗi thất vọng của phụ nữ
trước hiện thực người đàn ông khiếm khuyết, bất lực chứ không phải là người đàn
ông hoàn hảo, lý tưởng của xã hội. Đồng thời, trên hành trình tìm kiếm chính
mình, người phụ nữ thông qua sự phủ định nam giới để khẳng định bản thể của họ,
như Hélène Cixous đã từng nói: “Tôi
chưa dám xây dựng một hình tượng nam giới chân chính, tại sao? Vì tôi dùng
chính cơ thể mình để viết”(25). Sau khi khảo
sát các tác phẩm văn học nữ Trung Quốc hiện đạị, tác giả Nguyễn Văn Nguyên cũng
đã đúc rút ra kết luận rằng hệ thống nhân vật nam thường được xây dựng “trên cơ sở coi thường nam giới, phủ định, phê
phán toàn bộ thế giới đàn ông. Những hình tượng nam tính đầy “vai năm thước
rộng” vắng bóng trong tiểu thuyết “thân thể sáng tác”, đại đa số những nhân vật
nam trong tiểu thuyết “thân thể sáng tác” đều nhạt nhẽo, tầm thường, phẩm cách
vô vị, thiếu những vận động bản thân cả từ bề mặt lẫn chiều sâu, nằm rải rác
trong các tự sự của nữ giới, lẩn quất và mơ hồ, chỉ như những hiện vật để ngắm
nghía”(26).
Như
vậy, xây dựng thế giới đàn ông bất toàn là một trong những phương thức nghệ
thuật thể hiện nội dung tư tưởng thông qua hệ thống hình tượng nhân vật được
các nhà văn vận dụng như một hệ hình thi pháp sáng tác nữ, bộc lộ một thế giới
quan nữ tính từ góc nhìn của mình.
Tóm
lại, ý thức về giới đã và đang trỗi dậy một cách mạnh mẽ và quyết liệt, đặt con
người, xã hội và nền văn hóa nhân loại trong một cái nhìn mới, một góc nhìn
mới. Trong lĩnh vực chính trị – xã hội, người phụ nữ đấu tranh cho nữ quyền,
cho sự bình đẳng giới. Còn trong sáng tác nghệ thuật, họ bộc lộ tư tưởng và cảm
xúc của chính mình, ý thức về bản thể con người mình và thế giới xung quanh.
Người phụ nữ không còn là một hình tượng – đối tượng được khám phá gián tiếp
bằng cái nhìn của nam giới nữa mà là chủ thể trực tiếp tự bộc lộ, tự tái hiện
chính mình và thế giới. Những đặc trưng trên đã tạo nên một mô thức tự sự bao
trùm từ phương diện nội dung đến hình thức nghệ thuật của tác phẩm, có gốc rễ
từ nguyên nhân lịch sử xã hội và ngụ ẩn ngay trong tâm lý sáng tác của nhà văn.
Đây thực sự là những đặc trưng tư duy nghệ thuật của lối viết nữ, tạo nên điểm
nhìn sáng tác riêng biệt của người phụ nữ so với nam giới trong thế giới văn
chương.
Có
thể nói, người phụ nữ viết văn đang làm nên một cuộc giải quy phạm, giải ký
hiệu trong văn chương viết về nhân vật nữ. Qua đó, các nhà văn thể hiện rõ khả
năng tự ý thức và ý thức. Đặc biệt là ý thức về sự khác biệt giữa bản thể tính
nữ trong đời sống hiện thực và bản thể tính nữ trong thế giới nghệ thuật, xét
từ phương diện chủ thể sáng tác, nhằm khẳng định vai trò và trách nhiệm cầm bút
của chính mình và của giới mình.
Chú thích
(1),
(20) Bhaskar A. Shukla: Feminism
– From Marry Wollstonecraft to Betty Friedan, Sarup & Sons,
Delhi, India, 2007.
(2)
Mary Klages (Hồ Như dịch): Tiếng
cười nàng Medusa (bản diễn giải), www. damau.org, 2007.
(3),
(4), (5), (6) Peter Collier and Helga Geyer-Ryan: Literary Theory Today, Cornell
University Press, Ithaca, New York, 1990.
(7),
(18), (19) Vương Trí Nhàn ghi chép: “Phụ
nữ và sáng tác văn chương”, Tạp chí văn học, số 6, 1996.
(8),
(9), (10), (11), (12), (13), (16) Phỏng vấn 10 nhà văn nữ trong và ngoài nước:
“Có một cách viết nữ hay không”,
www.gio-o.com, 2005.
(14)
Nguyễn Đăng Điệp: Vấn
đề phái tính và âm hưởng nữ quyền trong văn học Việt Nam, Bài viết
tham dự Hội thảo Khoa học Quốc tế Hà Nội, 2006.
(15)
Cao Hạnh Thủy Hồ Xuân
Hương – Tiếp cận từ quan điểm giới tính, Luận văn Thạc sĩ, Đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, TP.HCM, 2007.
(17)Tran
Thuy Tien: Charlotte Bronte and Women’s
issues in Jane Eyre,
Graduated thesis (Bachelor), University of Social Sciences and Humannities, HCM City, 2008.
Graduated thesis (Bachelor), University of Social Sciences and Humannities, HCM City, 2008.
(21)
Elaine Showalter edited: Feminist
Criticism - Essays
on Women, Literature theory, Pantheon Books, New York, 1985.
(22),
(25), (26) Nguyễn Văn Nguyên: Nhận
diện “thân thể sáng tác” trong văn học đương đại Trung Quốc, Hội
thảo Văn học Nữ quyền, Viện Văn học, 2010.
(23)
Virginia Woolf (Trịnh Y Thư dịch): Căn
phòng riêng (A Room of One’s Own), NXB Tri thức, 2008.
(24)
Beth C. Schwartz: Thinking
back through our mothers: Virginia woolf reads Shakespeare, The
Johns Hopkins University Press.
*
Nguồn: Tạp chí Đại học Sài Gòn,
số chuyên đề Bình luận văn học – Niên giám
2011. Dẫn theo http://khoavanhoc-ngonngu.edu.vn