PHÊ
BÌNH NỮ QUYỀN*
Ranam Selden
Những nhà văn và độc giả nữ luôn phải làm trái ngược với
thói đời. Nhà triết học Aristotle tuyên bố rằng: “Đàn bà là đàn bà bởi một sự
thiếu thốn nhất định về những phẩm chất”, và Thánh Thomas Aquinas tin rằng “phụ
nữ là một người đàn ông không hoàn hảo”.
Khi thi sĩ John Donne viết “Không trung và các thiên sứ” ông đã ám chỉ (nhưng
không phải phản bác) đến lí thuyết của Aquinas rằng hình thể (form) là tính
dương và vật thể (matter) là tính âm: Cái trí tuệ của phái nam giống như Thượng
đế thì cao hơn in dấu cái hình thể của nó vào vật thể phái nữ bất động và có
thể nhào nặn được. Trong thời kì trước thuyết di truyền Mendel (1822-1886) đàn
ông xem tinh trùng của họ như những hạt giống chủ động ban hình thể cho cái
trứng đang chờ đợi mà vốn không có cá tính cho đến khi nó nhận được dấu ấn của
nam giới. Trong tác phẩm bộ ba bi kịch của Aeschylus, Oresteia, nữ thần Athena ban
chiến thắng cho lập luận của nam giới. Lập luận này do thần Apolo đưa ra, rằng
người mẹ thì không là kẻ sinh thành ra con cái của chị. Sự chiến thắng của
nguyên tắc nam giới về trí tuệ chấm dứt sự trị vì của những nữ thần Báo thù
(Furies) tràn trề nhục dục và chiến thắng này xác lập chế độ phụ quyền trên mẫu
quyền. Phê bình nữ quyền thỉnh thoảng gọi dậy cơn giận dữ của những nữ thần Báo
thù để làm xáo trộn những sự đinh ninh đắc ý của nền văn hóa phụ quyền và tạo
ra một khí hậu ít ngột ngạt hơn cho những nhà văn nữ và độc giả nữ. Thỉnh
thoảng những nhà phê bình nữ quyền áp dụng sự sắc sảo để “giải cấu trúc” những
cách nhìn bị nam giới thống trị. Marry Ellmann, chẳng hạn, đề xướng rằng chúng
ta có lẽ thích xem cái trứng như là dũng cảm, độc lập và chủ nghĩa cá nhân (hơn
là “vô cảm”) và tinh trùng như là tuân thủ, và ngoan ngoãn như bầy cừu (hơn là
“hồ hởi”). Sự tưởng tượng của Woody Allen về một tinh trùng đầy kinh hoàng đang
chờ đợi một cách bị động cuộc du hành đi vào cõi không biết thì cũng chẳng anh
hùng gì về sự thụ tinh như là bất cứ nhà nữ quyền nào có thể ao ước!
Những vấn đề của lí thuyết nữ quyền
Vài nhà nữ quyền không muốn ôm lấy “lí thuyết” chút nào.
Có quá nhiều lí do cho điều này. Trong những thiết chế hàn lâm, “lí thuyết” thì
thường mang tính nam giới, thậm chí kiêu hùng; nó là đội tiên phong trí thức,
cứng cỏi trong những nghiên cứu văn học. Những phẩm chất nam tính của sự nghiêm
khắc, mục đích thúc đẩy và tham vọng quá độ tìm thấy ngôi nhà của chúng trong
“lí thuyết” hơn là trong nghệ thuật mềm yếu thông thường về cách thông diễn phê
phán. Những nhà nữ quyền thường phơi bày ra tính khách quan giả trá của khoa
học nam giới. Những lí thuyết của Freud bị chỉ trích bởi sự phân biệt giới tính
rành rành của nó, chẳng hạn, vì giả định của chúng rằng tính dục nữ giới hình
thành bởi sự ganh tị “dương vật”. Nhiều phê bình nữ quyền mong ước tránh được
“những sự cố định và xác quyết” của lí thuyết và phát triển một diễn ngôn nữ
giới không thể bị ràng buộc về khái niệm như là thuộc về một truyền thống lí
thuyết được thừa nhận (và bởi vậy có lẽ do nam giới tạo ra). Tuy nhiên, những
nhà nữ quyền đã bị thu hút bởi những lí thuyết hậu cấu trúc kiểu Lacan và
Derrida, có lẽ bởi vì chúng thật sự từ chối xác nhận một quyền lực hay chân lí
“nam tính”. Những lí thuyết phân tâm học về những thúc đẩy bản năng đã hữu ích
một cách đặc biệt với những nhà phê bình nữ quyền từng cố gắng để phát biểu sự
đề kháng lật đổ và dường như vô dạng của vài nhà văn và phê bình nữ đối với
những giá trị văn học do giống đực thống trị, mặc dù, một vài nhà nữ quyền đã
tìm cách gợi lên những chiến lược khả dĩ về sự đề kháng của giống cái mà không lí
thuyết hóa tỉ mỉ.
Simone de Beauvoir, trong tác phẩm Giới tính thứ hai (1949), đã
thiết lập rất minh bạch những câu hỏi căn bản của chủ nghĩa nữ quyền hiện đại.
Khi một người đàn bà cố gắng để tự định nghĩa, chị bắt đầu bằng cách nói “tôi
là một đàn bà”. Không người đàn ông nào sẽ làm như vậy. Sự kiện này bộc lộ tính
bất đối xứng cơ bản giữa thuật ngữ “nam tính” và “nữ tính”. Đàn ông định nghĩa
nhân tính, chứ không phải đàn bà. Sự mất cân đối này trở lại thời Cựu Ước. Bị
phân tán giữa đám đàn ông, đàn bà không có một lịch sử phân li, không có sự
đoàn kết tự nhiên; họ không kết hợp như những nhóm bị áp bức khác đã làm. Đàn
bà bị siết chặt vào một mối quan hệ chênh lệch với đàn ông. Đàn ông là kẻ Một,
đàn bà là kẻ Khác. Sự thống trị của đàn ông củng cố một khí hậu ý hệ về sự phục
tùng: “Những nhà lập pháp, giáo sĩ, triết gia, nhà văn và nhà khoa học đã phấn
đấu để chỉ ra rằng vị thế phụ thuộc của đàn bà thì được muốn từ trên trời và
thuận lợi trên trái đất”. De Beauvoir dùng tài liệu minh chứng lập luận của mình
với sự uyên bác. Đàn bà bị
tạo thành những kẻ dưới và sự áp bức được phức hợp bởi niềm
tin của đàn ông rằng đàn bà là những
kẻ-dưới-bởi-bản-tính. Quan niệm trừu tượng về “sự bình đẳng” nhận được sự nói
đãi bôi, nhưng những đòi hỏi cho sự bình đẳng thực sự sẽ thường bị đề kháng.
Chính những người đàn bà, không-phải-những-người-đàn-ông-thuận-tình,
thì-ở-trong-vị-trí-tốt-đẹp-nhất để đánh giá những khả năng tồn tại chân thực
của nữ giới.
Dường như có năm tiêu điểm chính dính líu trong hầu hết
những thảo luận về sự khác biệt giới tính:
Sinh học
Kinh nghiệm
Diễn ngôn
Vô thức
Những điều kiện kinh tế và xã hội
Những lập luận đề cập tới sinh học như nền tảng và giảm
nhẹ sự xã hội hóa được sử dụng chủ yếu bởi đàn ông để giữ người đàn bà trong
“vị thế” của họ. Tục ngữ có câu “Tota
mulier in utero” (Đàn-bà-không-là-gì-ngoài-một-tử-cung) tổng kết
cho thái độ này. Nếu cơ thể của một người đàn bà là số mệnh của chị, vậy thì
tất cả những toan tính chất vấn những vai trò giới tính được gán cho đập vào
mặt với cái trật tự tự nhiên. Mặt khác, một số nhà nữ quyền cấp tiến ngợi ca
những thuộc tính sinh học của phụ nữ như những căn nguyên của thế hơn hơn là
thế kém. Bất cứ sự tranh luận cực đoan nào về cái bản tính đặc biệt của đàn bà
có nguy cơ đáp vào, bởi một tuyến đường khác, cùng vị trí với những nhà cực độ
bênh giống đực (sô-vanh). Nguy cơ này cũng đến với những người viện ra kinh
nghiệm đặc biệt của đàn bà như căn nguyên của những giá trị nữ giới tích cực
trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Lập luận này cho rằng, vì chỉ có đàn bà,
đã trải qua những kinh nghiệm đời của phụ nữ một cách chuyên biệt đó (rụng
trứng, kinh nguyệt, sinh đẻ), chỉ họ mới có thể nói về cuộc sống của một người
đàn bà. Hơn nữa, kinh nghiệm của một người đàn bà, bao gồm một cuộc sống tri
giác và cảm xúc khác; đàn bà không nhìn thấy sự vật trong cùng những cung cách
như đàn ông, và có những ý tưởng và cảm xúc khác về cái gì là quan trọng hay
không quan trọng. Một tuyển tập sớm gồm những bài tiểu luận nữ quyền, “Hình tượng về phụ nữ trong tiểu thuyết”
(Images of Women in Fiction)
(1972) do Susan Cornillon biên soạn, bị sa lầy trong sự phân tích về nội dung,
biện luận rằng hầu hết tiểu thuyết thế kỉ 19 và 20 thì không trung thực đối với
kinh nghiệm có thật của đàn bà. Một lối tiếp cận có ảnh hưởng hơn mà Elaine
Showalter gọi là “gynocritics” (phê bình nữ) tập trung vào sự đại diện văn học
về những sự dị biệt giới tính trong văn viết của phụ nữ. Tiêu điểm thứ ba, diễn
ngôn, nhận được nhiều sự chú ý bởi những nhà nữ quyền. “Ngôn ngữ do đàn tạo ra” (Man-Made Language)
của Dale Spender, như cái nhan đề gợi ý, cứu xét rằng phụ nữ bị đàn áp một cách
nền tảng bởi một ngôn ngữ bị nam giới thống trị. Nếu chúng ta chấp nhận lập
luận của Foucault rằng cái gì là “chân thực” phụ thuộc vào người kiểm soát diễn
ngôn, vậy thì hợp lí để tin rằng sự ngự trị của đàn ông về diễn ngôn đã đánh
bẫy đàn bà bên trong một “chân lí” giống đực. Từ quan điểm này thì tạo nghĩa
cho những nhà văn nữ tranh chấp với sự kiểm soát ngôn ngữ của đàn ông hơn là
đơn thuần rút vào một cấm khu của diễn ngôn phái nữ. Quan điểm ngược lại được
đưa ra bởi nhà ngôn ngữ xã hội học Robin Lakoff người tin rằng ngôn ngữ của phụ
nữ thật sự là thấp kém hơn, bởi vì nó chứa đựng những dạng thức về “yếu đuối”
và “bất định”, tập trung vào “cái tầm thường”, cái tầm phào, cái không nghiêm
túc và nhấn mạnh những đáp ứng cảm xúc cá nhân. Bà lập luận rằng, sự phát ngôn
của giống đực, là “mạnh hơn” và phụ nữ nên áp dụng nếu họ muốn đạt được sự bình
đẳng xã hội với đàn ông. Hầu hết các nhà nữ quyền cấp tiến có quan điểm rằng phụ
nữ đã bị tẩy não bởi loại hệ ý thức phụ quyền này nó tạo ra những khuôn sáo về
đàn ông mạnh mẽ và đàn bà yếu đuối. Những lí thuyết phân tâm học của Lacan và
Kristeva đã cung cấp một tiêu điểm thứ tư – tiến trình của vô thức. Một vài nhà
văn nữ quyền đã đoạn tuyệt hoàn toàn với chủ nghĩa sinh học bằng cách kết hợp
giống cái với những tiến trình có khuynh hướng phá nền quyền lực của diễn ngôn
giống đực. Bất cứ gì khuyến khích hay khởi xướng một trò diễn tự do về những ý
nghĩa và ngăn cản “sự khép kín” được xem như là của “giống cái”. Tính dục giống
cái là cách mạng, lật đổ, dị chủng và “mở rộng”. Cách xúc tiến này thì ít có
nguy cơ bị cấm khu hóa và bị khuôn sáo hóa, bởi vì nó từ chối định nghĩa tính
dục giống cái; nếu có một nguyên lí giống cái, đơn giản là nó phải nằm bên
ngoài định nghĩa của giống đực về giống cái. Virginia Woolf là nhà phê bình phụ
nữ đầu tiên bao gồm cả kích thước xã hội học (tiêu điểm thứ năm) vào phân tích
của bà về cách viết của phụ nữ. Kể từ sau đó, những nhà nữ quyền Mác-xít, nói riêng,
đã cố gắng để liên hệ những thực trạng kinh tế và xã hội biến đổi với sự cân
bằng biến đổi của quyền lực giữa những giới tính. Họ đồng ý với những nhà nữ
quyền khác trong việc bác bỏ khái niệm về một nữ tính đại đồng.
Kate Millett và Michèle Barrett: Thuyết nữ quyền chính
trị
Những bản viết nữ quyền hiện đại ở Hoa Kì được kích động
từ những phong trào dân quyền, hòa bình và những phong trào phản kháng
khác. “Chính trị về giới tính”/
Sexual Politics (1969) của Kate Millett đánh dấu một giai đoạn
quan trọng trong bản viết nữ quyền “chính trị” về văn học. Bà sử dụng từ “phụ
quyền” (sự cai trị của người cha) để mô tả nguyên nhân của sự áp bức phụ nữ.
Chế độ phụ quyền phụ thuộc giống cái vào giống đực hay đối xử giống cái như một
giống đực thấp kém hơn. Quyền lực được thi triển trực tiếp hoặc gián tiếp trong
đời sống dân sự và gia đình, để chế ngự phụ nữ. Millett lập luận rằng, mặc dù
có những tiến bộ về dân chủ, phụ nữ vẫn tiếp tục bị cưỡng chế bởi một hệ thống
về khuôn sáo trong vai trò giới tính mà họ bị bắt phải chịu từ buổi đầu thơ ấu.
Bà vay mượn từ khoa học xã hội sự khu biệt quan trọng giữa “giới tính” (sex) và
“phái tính” (gender). Giới tính bị quyết định về mặt sinh học, nhưng “phái
tính” là một khái niệm tâm lí quy chiếu về căn cước tính dục hấp thụ qua văn hóa. Margaret Mead, nhà nhân
loại học, đã chỉ ra rằng trong những xã hội phi phương Tây thì những thuộc tính
chỉ định cho đàn ông và đàn bà có thể khác nhau rất xa; đàn ông có thể là yêu
chuộng hòa bình, còn đàn bà hiếu chiến. Millett và những nhà nữ quyền khác đã
công kích những nhà khoa học xã hội xử lí những đặc trưng “giống cái” học tập
qua văn hóa (sự thụ động, vân vân) như tự nhiên. Bà thừa nhận rằng đàn bà cũng
góp phần như đàn ông kéo dài những thái độ này trong những tạp chí phụ nữ và hệ
tư tưởng về gia đình. Trong quan điểm của bà, “những vai trò” giới tính bị kéo
dài trong xã hội là mang tính đàn áp. Việc thi triển những vai trò này trong
mối quan hệ bất bình đẳng về thống trị và phụ thuộc là điều mà Millett gọi là
“Chính trị về giới tính”.
Trong giai đoạn đầu của bản viết nữ quyền hiện đại về văn
học (Kate Millett, Germaine Greer, Mary Ellmann) sự nhấn mạnh rất thường là
chính trị trong cái nghĩa là những người viết đang diễn đạt những cảm nhận giận
dữ về sự bất công và dấn mình vào việc nâng cao nhận thức “chính trị” của phụ
nữ về việc họ bị áp bức bởi đàn ông. Đáng ghi nhận là những sự giống nhau giữa
loại nữ quyền này và những dạng khác của thuyết chính trị cấp tiến. Đàn bà như
một nhóm bị áp bức có thể được và đã được so sánh với những người da đen và với
tầng lớp lao động; mặc dù, như Simone de Beauvoir vạch ra, không giống những
người da đen, đàn bà không phải là một thiểu số, và không giống như giai cấp vô
sản, đàn bà không phải là một sản phẩm của lịch sử. Người ta đã từng nói rằng
phạm trù bị áp bức nhất của tất cả là người da đen, tầng lớp lao động và đàn
bà. Những lập luận của mỗi nhóm bị áp bức mang những dạng giống nhau: kẻ đàn áp
bị xem như nỗ lực một cách ý thức để duy trì sự đàn áp không biết đến bao giờ
qua hệ tư tưởng (phân biệt chủng tộc, tư sản hay gia trưởng); mỗi nhóm bảo vệ
những thành viên của nó khỏi đại diện sai lạc và rập khuôn trong tiểu thuyết và
những phương tiện thông tin đại chúng; và mỗi nhóm dẫn dắt một cuộc đấu tranh
“chính trị” để nâng cao sự nhận thức trong những người bị áp bức và để thực
hiện một sự thay đổi triệt để trong những mối quan hệ quyền lực giữa người đàn
áp và người bị đàn áp. Trong những lí thuyết thô sơ về mặt chính trị này hệ tư
tưởng bị giảm trừ thành một khí giới thống trị hoàn toàn một chiều. Với
Millett, như Cora Kaplan diễn đạt, “hệ tư tưởng là chiếc dùi cui dương vật phổ
quát mà với nó đàn ông của mọi tầng lớp sử dụng để đánh đập đàn bà”. Đàn ông
đơn giản phóng chiếu lên đàn bà những thuộc tính của sự yếu đuối và sự khổ dâm.
Điều này phớt lờ những tiến trình tâm lí vô thức của sự hình thành phái tính và
những động cơ xã hội và kinh tế khách quan hơn về sự áp bức của phụ nữ.
Điều này ảnh hưởng đến văn học như thế nào? Trước hết,
chính những giá trị và qui ước văn học hình thành bởi đàn ông, và đàn bà thường
tranh đấu để diễn đạt những mối quan tâm của chính họ trong những dạng thức có
thể là không thích hợp. Trong văn tự sự, chẳng hạn, những quy ước hình thành về
cuộc phiêu lưu và sự đeo đuổi lãng mạn có một khởi động và tính mục đích của
“giống đực”. Thứ hai, nhà văn nam đề đạt với độc giả như thể người đọc toàn là
đàn ông. Quảng cáo cung cấp những ví dụ song song rành rành trong văn hóa đại
chúng. Quảng cáo ti-vi cho một vòi sen điện, trình ra một người phụ nữ khiêu
khích buông rơi khăn tắm chỉ quá trễ cho người xem (đàn ông) thoáng thấy cơ thể
trần truồng của chị, hiển nhiên loại trừ người xem đàn bà. Tuy nhiên, rõ ràng
từ ví dụ này ta thấy rằng cũng có thể đối với người xem đàn bà lại câu kết
trong việc loại trừ này và để xem “như một người đàn ông”. Cũng giống như vậy
người độc giả nữ có thể bị ép buộc (vô thức) vào trong việc đọc như một người
đàn ông. Để chống lại sự nhồi sọ này của độc giả nữ Kate Millett, trong“Chính trị về giới tính” (Sexual Politics),
phơi bày những biểu hiện áp bức của giới tính được tìm thấy trong tiểu thuyết
đàn ông. Vì làm cận cảnh cố ý cái quan điểm của một độc giả nữ, bà làm nổi bật
sự thống trị đàn ông tràn ngập những sự miêu tả giới tính trong những tiểu
thuyết của D. H. Lawrence, Henry Miller, Norman Mailer và Jean Genet. Chẳng
hạn, bà chỉ trích một đoạn trong tác phẩm Tính dục (Sexus) của
Miller (“Tôi tụt xuống quỳ gối và vùi đầu trong mớ lông của cô”, vân vân) và
biện luận rằng nó “mang theo giọng… của một người đàn ông thuật lại một chiến
tích với một người đàn ông khác trong từ ngữ phái nam với quan điểm của nó”. Bà
mô tả những hành động trọng tâm trong Giấc
mơ Mĩ (American Dream) của Mailer, trong đó Rojact đầu tiên
giết vợ ông và rồi kê gian (sodomy) [làm tình kiểu con gà, tục gọi là lắp đít]
với người hầu gái Ruta, như “một cuộc chiến phát động” chống lại phụ nữ “bằng
chết chóc và kê gian”. Cuốn sách của Millett cung cấp một sự phê phán đầy quyền
lực về văn hóa phụ quyền, nhưng vài nhà nữ quyền tin rằng sự lựa chọn của bà về
những tác giả đàn ông thì quá không tiêu biểu, và số khác nghĩ rằng bà không
hiểu một cách đầy đủ quyền lực dấy loạn của trí tưởng tượng trong tiểu thuyết.
Bà bỏ lỡ, chẳng hạn, bản chất phản thường (deviant) sâu sắc của tác phẩm Nhật kí của kẻ cắp (The Thief’s Journal)
của Genet, và chỉ thấy, trong thế giới đồng tính được miêu tả, một hàm ý về sự
khuất phục và hạ cấp người đàn bà; sự thống trị và sự lệ thuộc trong những
người đồng tính bị cho là chỉ như là phiên bản khác về khuôn mẫu dị tính áp
bức. Trong Tù nhân của tính dục (The Prisoner
of Sex, 1971) Norman Mailer phóng ra một sự công kích hiếu chiến
vào Millett và thường tính ăn điểm chống lại những sự thất bại của bà đối với
ngữ cảnh tiểu thuyết của những đoạn đặc thù. Dường như, đối với Millett, những
tác giả đàn ông bị ép buộc bởi phái tính của họ để tái sản xuất cái chính trị
về giới tính áp bức của thế giới thực trong tiểu thuyết của họ. Cách xúc tiến
này sẽ không công bằng, chẳng hạn, đối với cách đối xử của Joyce về tính dục
đàn bà. Không chỉ Mailer mà ngay cả vài nhà nữ quyền cũng thấy rằng Millett vì
giữ một quan điểm một chiều về sự thống trị của đàn ông; bà đối xử với hệ tư
tưởng phân biệt giới tính như một tấm màn tổng quát về sự đàn áp mà tất cả
người viết đàn ông chắc chắn đề cao.
Millett và Shulamith Firestone (Biện chứng về tính dục/ The Dialectic of Sex,
1979) quan niệm sự thống trị của đàn ông như sơ cấp và hoàn toàn độc lập với
những dạng xã hội và kinh tế khác của sự đàn áp. Mục đích lí thuyết của
Firestone là để thay thế giới tính cho giai cấp như yếu tố quyết định lịch sử
chính. Chính “cuộc đấu tranh giai cấp” là một sản phẩm của sự tổ chức đơn vị
gia đình sinh học. Michèle Barrett đã biện luận rằng khái niệm về “phụ quyền”
như được Millett và Firestone sử dụng để gợi ý một sự thống trị phổ quát chẳng
với nguồn gốc hoặc biến thiên lịch sử nào. Bằng cách không biết đến sự nối khớp
của phụ quyền với chủ nghĩa tư bản, bà biện luận, họ đơn giản hóa quá độ một
tiến trình phức tạp. Vài nhân tố phải được liên hệ với nhau. Chúng bao gồm: sự
tổ chức kinh tế của những hộ gia đình và kèm theo hệ tư tưởng gia đình của nó;
sự phân chia lao động trong hệ thống kinh tế; những hệ thống về giáo dục và nhà
nước; những tiến trình văn hóa trong đó đàn ông và đàn bà được thể hiện một
cách khác nhau; và bản chất của căn cước phái tính và mối quan hệ giữa tính dục
và sản dục sinh học.
Barrett trình ra một sự phân tích nữ quyền Marxist về đại
diện phái tính. Trước hết, bà khen ngợi sự biện luận duy vật chủ nghĩa của
Virginia Woolf rằng những điều kiện mà dưới chúng đàn ông và đàn bà sản xuất văn học thì khác
nhau về vật chất và ảnh hưởng đến hình thức và nội dung của cái họ viết. Chúng
ta không thể tách biệt những câu hỏi về sự khuôn sáo phái tính với những điều
kiện vật chất của chúng trong lịch sử. Điều này có nghĩa rằng sự giải phóng sẽ
không đến một cách đơn thuần từ những sự thay đổi trong văn hóa. Thứ hai, hệ tư
tưởng về phái tính ảnh hưởng cung cách mà những văn bản của đàn ông và đàn bà
được đọc và cách những quy điển (canon) kiệt xuất được thiết lập. Thứ ba, những
nhà phê bình nữ quyền phải kể đến bản chất hư cấu của những văn bản văn học và không đắm
mình trong “luân lí học thịnh hành” bằng cách kết tội toàn bộ tác giả đàn ông
vì tất cả sự phân biệt giới tính trong những cuốn sách của họ và tán đồng những
tác giả đàn bà vì nêu lên những đề xuất về phái tính. Những văn bản không có
những nghĩa cố định: những sự diễn giải phụ thuộc vào tình huống và hệ tư tưởng
của người đọc. Tuy nhiên, đàn bà có thể và nên cố gắng để khẳng định sự ảnh
hưởng của họ trên cung cách mà ở đó giới tính được định nghĩa và thể hiện một
cách văn hóa.
Trong bài giới thiệu cho cuốn “Phê bình nữ quyền và thay đổi xã hội” (Ferminist Criticism and Social Change,
1985) Judith Newman và Deborath Rosenfelt biện luận cho một sự phê bình nữ
quyền duy vật chủ nghĩa tránh chủ nghĩa yếu tính bi thảm của những nhà phê bình
nữ quyền kia đang phóng chiếu một hình ảnh về đàn bà như bất lực một cách phổ
quát và ngoan ngoãn một cách phổ quát. Họ chỉ trích cái họ cho là tính nghĩa
đen hẹp hòi của tác phẩm có thế lực “Người
đàn bà điên trong rầm thượng” (The
Madwoman in the Attic) của Gilbert và Gubar, và đặc biệt là họ
sao nhãng về những thực tế xã hội và kinh tế đóng một phần quan trọng trong
việc xây dựng vai trò phái tính (xem dưới đây về Gilbert và Gubar). Penny
Boumehla, Cora Kaplan và những thành viên của tập thể văn học nữ quyền Marxist
đã đưa những văn bản văn học vào phân tích hệ tư tưởng đã được Althusser và
Macherey khai triển để hiểu sự hình thành lịch sử của những phạm trù phái tính.
Bản viết phụ nữ và những nhà nữ phê bình
“Một nền văn học riêng của họ” (A Literature of Their Own, 1986) của Elaine Showalter khảo sát những nữ tiểu
thuyết gia vương quốc Anh từ thời những chị em nhà Bronte với quan điểm về kinh
nghiệm của phụ nữ. Bà đưa ra quan điểm rằng, trong khi không có tính dục đàn bà
hay trí tưởng tượng đàn bà cố định hoặc bẩm sinh, nhưng vẫn có một sự khác biệt
sâu sắc giữa bản viết của đàn bà với đàn ông, và rằng một truyền thống trọn vẹn
về văn viết đã bị sao nhãng bởi những nhà phê bình đàn ông: “Cái lục địa mất đi
của truyền thống nữ giới dâng lên giống như đảo Atlantics từ biển của văn học
Anh vậy”. Bà phân chia truyền thống này thành ba giai đoạn. Giai đoạn đầu là
giai đoạn “phái nữ” (the feminine phase), 1840-1880, bao gồm Elizabeth Gaskell
và George Eliot. Những người viết nữ đã bắt chước và nhập nội những tiêu chuẩn
thẩm mĩ đàn ông ưu thế, điều này bắt buộc những người viết nữ vẫn còn là quý
bà. Phạm vi chính về công việc của họ đã là vòng gia đình và xã hội trực tiếp
của họ. Họ đã chịu đựng tội lỗi về sự dấn thân ích kỉ của họ đối với việc sáng
tác và chấp nhận những hạn chế nhất định trong cách biểu hiện, tránh xa sự thô
lậu và nhục dục. Tuy nhiên, tôi sẽ biện luận rằng thậm chí George Eliot có phần
Thanh giáo cũng xoay xở để ngụ ý nhiều sự nhục dục trong Nhà máy xay lúa trên Lụa Sồi (The Mill on the
Floss). Trong bất cứ trường hợp nào, sự thô lậu và nhục dục đã
không dễ dàng được chấp nhận trong tiểu thuyết của đàn ông; Tiểu thuyết Cô Tess ở vùng D’Urbervilles (Tess of the
D’Urbervilles) gây tranh cãi của Hardy phải dùng đến sự ngụ ý
và hình tượng thi ca để truyền đạt tính dục của nhân vật nữ chính.
Giai đoạn “nữ quyền” (the feminist phase), 1880 – 1920,
bao gồm những người viết như Elizabeth Robins và Olive Schreiner, phản đối những giá trị của
đàn ông. Những nhà nữ quyền cấp tiến của thời kì này đã đề xướng những xã hội
không tưởng về kiểu Amazon tách biệt và những kết đoàn phụ nữ đòi quyền bầu cử.
Thứ ba, giai đoạn “giống cái” (từ 1920 trở đi) đã thừa hưởng những đặc tính của
những giai đoạn trước và đã phát triển ý tưởng về văn viết đàn bà và kinh
nghiệm đàn bà chuyên biệt trong giai đoạn về tự khám phá. Rebecca West, Katherine Mansfied và
Dorothy Richardson là những nữ tiểu thuyết khởi đầu quan trọng nhất trong giai
đoạn “giống cái” này, theo Showalter. Trong cùng giai đoạn mà Joyce và Proust
đang viết những tiểu thuyết dài về ý thức chủ quan, tiểu thuyết dài Cuộc hành hương (Pilgrimage) của
Richardson đã lấy chủ đề là ý thức phái nữ. Những quan điểm của bà Showalter về
bản viết đã tiên đoán được những lí thuyết nữ quyền mới đây. Bà đã ủng hộ một
kiểu năng lực âm, một “sự tiếp nhận đa chiều” mà bác bỏ những quan điểm và ý
kiến xác định mà bà đã gọi là “những sự việc phái nam”. Showalter viết rằng ‘bà
cũng hợp lí hóa cho vấn đề về “những sự tuôn trào chẳng nên hình dạng” của phụ
nữ bằng cách vạch ra một lí thuyết mà đã xem sự chẳng nên hình dạng như biểu
hiện tự nhiên của đồng cảm phái nữ, và khuôn thức như kí hiệu về tính một chiều
của đàn ông’. Bà cố gắng tự giác để tạo ra những câu tỉnh lược và phần mảnh để mà
truyền đạt điều bà cứu xét là hình dạng và kết thức của tâm trí đàn bà. Sau
Virginia Woolf, một sự chân thực mới về tính dục (ngoại tình, đồng tính nữ, vân
vân) đi vào tiểu thuyết của phụ nữ, đặc biệt trong tác phẩm của Jean Rhys. Một
thế hệ mới của đàn bà được giáo dục đại học, những người không còn cảm thấy nhu
cầu biểu hiện những sự bất bình phái nữ, bao gồm A. S. Byatt, Margaret Drabble,
Christine Brooke-Rose và Brigid Brophy. Tuy nhiên, trong những năm đầu thập
niên 1970 một sự chuyển hướng về một giọng giận dữ hơn xảy ra trong những tiểu
thuyết của Penelope Mortimer, Muriel Spark và Doris Lessing.
Virginia Woolf đã viết nhiều về văn viết của đàn bà và,
giống như Richardson, là một người tiên phong quan trọng của phê bình nữ quyền
hiện đại. Trong khi bà không bao giờ chấp nhận một thế đứng nữ quyền, nhưng bà
liên tiếp xem xét những vấn đề đối diện những người viết nữ. Bà tin rằng phụ nữ
đã luôn đương đầu với những trở ngại xã hội và kinh tế đối với những tham vọng
văn học của họ. Chính bản thân bà cũng nhận thức rõ về nền giáo dục bị hạn chế
mà bà nhận được (bà không được dạy tiếng Hi Lạp, chẳng hạn). Bằng cách áp dụng
đạo lí tính dục về “lưỡng tính” (androgyny), của nhóm Bloomsbyry, bà đã chấp
nhận việc rút êm đềm khỏi cuộc tranh đấu giữa phân biệt giới tính đàn ông và
đàn bà. Bác bỏ một ý thức nữ quyền, bà hi vọng đạt được một sự cân bằng giữa
một sự tự thực hiện “nam tính” với sự tự hủy diệt “nữ tính”. Những cơn tấn công
lặp đi lặp lại về điên loạn và sự tự sát sau rốt của bà có lẽ gợi ý rằng cuộc tranh
đấu để vượt qua tính dục bị thất bại, mặc dù theo phân tâm học chúng có thể
cũng được cho là những triệu chứng về sự kháng cự của bà với một nền phụ quyền
đàn áp. Bà đã muốn nữ tính của bà là vô thức để mà bà có thể “tránh được cuộc
đối đầu với giống cái hay giống đực” (Căn
phòng riêng/ A Room of One’s Own). Toril Moi đưa ra một sự diễn
giải khác hẳn về quan niệm lưỡng tính của Woolf. Áp dụng sự liên kết của
Kristeva giữ nữ quyền với văn viết tiên phong (xem dưới đây) Moi biện luận rằng
Woolf thì không chú ý một “sự cân bằng” giữa những mẫu phái nam và phái nữ
nhưng trong một sự chuyển chỗ trọn vẹn về những căn cước phái tính cố định, và
rằng bà tháo rời những khái niệm bản chất luận về phái tính bằng cách phân tán
những quan điểm bền vững trong những tiểu thuyết theo chủ nghĩa hiện đại của
bà. Woolf, theo Moi biện luận, đã bác bỏ duy nhất loại nữ quyền mà đơn giản là
một chủ nghĩa sô-vanh đàn ông đảo ngược đó. Bà đã chỉ ra nhận thức sâu sắc về
sự riêng biệt của văn viết của phụ nữ. Sự tường thuật của bà về Nữ công tước
Newcastle lập dị hóm hỉnh lôi cuốn sự chú ý tới sự sáng tạo rất “phái nữ” của
một nhà văn nữ thế kỉ 17.
Mặc dù những triết lí của bà thì phù phiếm, và những vở
kịch của bà quá quắt, và những câu thơ của bà chủ yếu ngớ ngẩn, nhưng đại bộ
tác phẩm của nữ công tước đã lên men vì một mạch nguồn của ngọn lửa đích thực.
Người ta chẳng thể không theo đuổi sự cám dỗ của cá tính thất thường và đáng
yêu của bà khi nó lan man và lấp lánh từ trang này qua trang khác. Có một điều
cao quý, hào hiệp rởm kiểu Dônkixôt và quả cảm, cũng như gàn dở và ngớ ngẩn, về
bà ấy.
Virginia Woolf dường như đang nói rằng sự nghiệp “phái
nam” ngớ ngẩn của nữ công tước (“đại bộ tác phẩm”) bừng sáng bởi một sự bướng
bỉnh “đàn bà” bỡn cợt (“thất thường”, “lan man”). Câu cuối cùng thì bộc lộ một
cách đặc biệt: “cao quý và hào hiệp rởm kiểu Dônkixôt” nghe có vẻ như những
thuộc tính phái nam, trong khi “gàn dở và ngớ ngẩn” nghe có vẻ phái nữ. Bằng
cách kết hợp những hàm ý tương phản, bà chạm tới một kiểu phát tán lưỡng tính
của căn cước giới tính cố định.
Tiểu luận có ảnh hưởng và lôi cuốn nhất của bà về những
người viết nữ là “Những chuyên ngành cho phụ nữ” (Professions for Women). Bà đã
coi sự nghiệp của chính mình như bị cản trở trong hai cách. Trước hết, cũng như
nhiều người viết thế kỉ 19, bà bị cầm tù bởi hệ tư tưởng về thân phận phụ nữ.
Lí tưởng về “Thiên sứ trong nhà” (the Angel in the House) [thuật ngữ kẻ cả của
Coventry Patmore] hô hào phụ nữ nên biết cảm thông, không ích kỉ và trong sạch;
để sáng tạo thời gian và không gian cho văn viết, một phụ nữ phải sử dụng những
mưu mẹo và sự nịnh nọt đàn bà. Thứ hai, sự cấm kị về diễn đạt dục vọng đàn bà
đã ngăn cản bà “nói lên sự thật về những kinh nghiệm của chính cá nhân như một
thân thể”. Sự khước từ giới tính đàn bà và vô thức thì chẳng hề được vượt thắng
trong tác phẩm hay cuộc sống của bà. Quả thực, bà đã không tin vào một vô thức
đàn bà, nhưng đã nghĩ rằng đàn bà viết khác đàn ông không vì họ khác nhau về
tâm lí mà bởi vì những kinh nghiệm xã hội của họ khác nhau. Những toan tính của
bà để viết về những kinh nghiệm của đàn bà thì có ý thức và nhằm khám phá những
cách thức ngôn ngữ của việc miêu tả cuộc sống chật hẹp của phụ nữ. Bà tin rằng
cuối cùng tới khi nào đàn bà đạt được sự bình đẳng xã hội và kinh tế với đàn
ông, sẽ không còn gì để ngăn cản đàn bà khỏi việc phát triển tự do những tài
năng nghệ thuật của họ.
Văn bản nữ giới phê bình sơ kì gây ấn tượng nhất với tôi
là cuốn Nghĩ về đàn bà (Thinking about
women,1986) của Mary Ellmann. Bà thuộc về giai đoạn “chính trị” sơ
kì của chủ nghĩa nữ quyền hiện đại, nhưng báo trước những sự phát triển tinh tế
hơn. Luận điểm chính của bà là văn hóa phương Tây thì hoàn toàn tràn ngập bởi cái
mà bà gọi là “tư duy bằng sự tương tự giới tính” – một sự áp dụng phổ biến của
những khuôn sáo phái tính cho gần như mọi thứ trong vũ trụ bao gồm cả nghệ
thuật. Bà tấn công một cách hóm hỉnh vào “phê bình dương vật”, chế nhạo quan
niệm phi lí về “Tính nam nhi trong nghệ thuật” của Walter Pater mà ông định
nghĩa như một sự kĩ xảo nghệ thuật có ý thức hoàn toàn, một “sự bền bỉ của trực
quan và chủ định, tinh thần của cấu trúc như đối lập với cái rõ là không mạch
lạc hay sẵn sàng rơi thành mảnh vụn, và sự đối lập với cái cuồng loạn hay những
tác phẩm ngẫu nhiên”. Trong chương cuối Ellmann khảo sát những cung cách mà
trong đó những người viết nữ đáp lại ngọn trào tràn dâng của văn hóa phụ quyền.
Không giống Showalter, Ellmann không có khuynh hướng đồng nhất văn viết đàn bà
với kinh nghiệm đàn bà, nhưng tương quan nó với những phong cách văn học nhất
định. Bà biện luận rằng, người viết nữ, thường thiết lập một viễn cảnh khác
biệt có tính lật đổ bằng cách bào mòn những xác định về sự phán xét và sự cố
định của tiêu điểm. Những tiểu thuyết của Ivy Compton Burnett giảm trừ “những
quan điểm” xác định thành những nhận xét bên lề, chối bỏ chúng quyền uy của
những phán xét phái nam. Mẫu này của văn viết thường sản xuất ra một hiệu ứng
về tĩnh thái khôi hài,
mà trong đó những phán xét được dự bị và những kết luận không được đẩy tới.
Trong quan điểm của bà, không phải mọi người viết nữ đều áp dụng một phong cách
văn viết đàn bà; Mary McCarthy viết với quá nhiều quyền uy và Charlotte Bronte
với quá nhiều sự dấn thân và say mê nghiêm túc. Ngược lại, sự kiểu cách trong
văn phong bào mòn một cách tinh tế đó được coi trọng bởi Ellmann thì đã được
tìm thấy trong Oscar Wilde và, người ta có thể cộng, Joe Orton, cả hai thì đều
không chính thống về giới tính.
Ellmann lưu ý tới cuốn Hai quý bà nghiêm túc (Two Serious Ladies, 1943) của Jane
Bowles, một tiểu thuyết hài kì quái về hai người đàn bà sa sút vào một thế giới
thứ cấp của trụy lạc trong khi vẫn duy trì một sự hợp thức lịch thiệp trong
cách phát âm và cách ứng xử. Đàn bà ăn mừng trong một cung cách hoàn toàn không
tự giác những niềm vui tế nhị về sự độc lập của đàn bà. Cuốn tiểu thuyết này là
một khảo sát sơ kì tuyệt vời về sự lật đổ của đàn bà với những giá trị đàn ông.
Frieda Copperfield khao khát một khách sạn tiện nghi ở Panama mà bà viếng thăm
cùng với chồng mình. Ông ưa thích hơn việc xài tiền vào “những đồ vật” sẽ lâu
bền và, khi Frieda không đồng ý, ông cau có:
“Nếu em sắp khốn khổ, chúng ta sẽ đến khách sạn
Washington,” ông Copperfield nói. Đột nhiên, ông đánh mất uy thế của mình. Mắt
ông đục ngầu và ông bĩu môi. “Nhưng anh sẽ trở nên đáng thương ở đó, anh có thể
đảm bảo với em. Nó sẽ trở thành quá buồn chán chết tiệt.” Ông giống như một trẻ
nít và bà Copperfield buộc phải dỗ dành ông. Ông có một cái mẹo để khiến bà cảm
thấy có trách nhiệm.
Chỉ
một tiểu thuyết gia nữ mới có thể dùng sự trả thù độc ác như vậy trên uy thế
của đàn ông và “tinh thần xây dựng” của ông ta! Bowles sử dụng những nhân vật
chính của mình để khảo sát một ý thức và hệ thống giá trị “đàn bà”. Họ bị thu
hút vào cái cấm bởi vì nó thách thức quyền uy đàn ông. Họ tìm kiếm một cách vô
tư và vô trách nhiệm niềm hạnh phúc và “sự bình yên bên trong”. Christina
Goering bỏ rơi sự khả kính giai cấp thượng lưu của bà và sau cùng trở thành một
gái gọi cao cấp ở Panama .
Trong tiến trình “suy tàn” của mình bà quan sát những sự phòng thủ và sự mâu
thuẫn kì quặc của bọn đàn ông hâm mộ mình. Cha của Arnold , người cạnh tranh khá trắng trợn với
con trai để ve vãn Christina, tự nhiên nhắc đến những hi vọng của ông rằng cô ấy
sẽ đứng “về phía tôi”. Cô hỏi “Điều này bao hàm những gì?” Ông đáp lại, “nó bao
hàm… việc em là một người đàn bà chân chính. Đồng tình và sẵn lòng bảo vệ tất
cả những điều anh nói và làm. Đồng thời sẵn sàng mắng nhiếc anh chút xíu thôi”.
Sáng hôm sau, ông xuất hiện với một cổ áo không gài và mái tóc rối, cố gắng gạt
bỏ những trách nhiệm hôn nhân với một sự vô tư kiểu người Bohêmiêng, và tuyên
bố, không nhận thấy những sự bất nhất của ông, “Vẻ đẹp của người nghệ sĩ nằm
trong tâm hồn như trẻ thơ.” Trong sự theo đuổi hạnh thánh của cô, Christina
cuối cùng tự hỏi câu hỏi của “đàn ông”, “Có khi nào một phần của tôi đã bị che
đậy mà tôi nhìn không ra cũng đang mau chồng chất tội lỗi như bà Copperfield
không?” Người tường thuật điềm tĩnh kết luận: “Cô Goering nghĩ cái khả năng sau
này thật đáng quan tâm nhưng chẳng có gì quan trọng.”
Hai
quý bà nghiêm túc (Two
Serious Ladies) chỉ hướng về một phê bình nữ quyền vượt quá những
cuộc luận chiến nghiêm khắc của Kate Millett và tuy vậy vẫn xói mòn một cách
tinh tế tất cả những giá trị và khuôn sáo “đàn ông”. Chẳng hạn, bà Copperfield
tuyên bố “Tôi luôn là một người sùng bái thân thể… nhưng điều đó không có nghĩa
rằng tôi phải lòng những người có thân thể đẹp. Vài thân thể tôi thích thì kinh
khủng.” Ở đây điều đàn ông có thể coi như tính bất thường của đàn bà là được
chuyển dịch âm thầm thành sự khác biệt của đàn bà làm ta sáng mắt.
Trong
cuốn Người đàn bà điên trong rầm
thượng (The
Madwoman in the Attic, 1979) Sandra Gilbert và Susan Gubar biện
luận rằng những người viết nữ chủ chốt kể từ Jane Austen đã đạt được một tiếng
nói đàn bà khu biệt bằng cách “cùng một lúc tuân thủ và phá vỡ những chuẩn mực
văn học phụ quyền”. Những khuôn mẫu đàn bà về “thiên sứ” và “quái vật” (người
đàn bà điên) đồng thời được chấp nhận và giải cấu trúc. Tuy nhiên, như Mary
Jacobus đã vạch ra, Gilbert và Gubar có khuynh hướng giới hạn tự do của những
người viết nữ bằng cách xây dựng họ như “những nạn nhân có tài ăn nói khác
thường của một cốt truyện do phụ quyền gây ra”. Một quan điểm triệt để hơn về
sự khác biệt của đàn bà được mở ra bởi phân tâm học hiện đại.
Lí thuyết phê bình nữ
quyền Pháp
Chủ nghĩa nữ quyền Pháp bị
ảnh hưởng sâu sắc bởi phân tâm học, đặc biệt bởi sự tái tạo những lí thuyết của
Lacan về Freud. Những nhà nữ quyền Pháp, bằng cách đi theo những lí thuyết của
Lacan đã vượt thắng ác cảm với Freud cùng san sẻ bởi hầu hết các nhà nữ quyền.
Trước Lacan, những lí thuyết của Freud, đặc biệt ở Mĩ, được giảm trừ thành một
trình độ sinh học thô: bé gái, nhìn cơ quan đàn ông, nhận ra chính mình như đàn
bà vì cô thiếu dương vật. Cô định nghĩa chính mình một cách tiêu cực và chịu
đựng một “sự ghen tị dương vật” (penis-envy) không thể tránh. Theo Freud, sự
ghen tị dương vật là phổ quát trong đàn bà và chịu trách nhiệm về “phức cảm
thiến hoạn” (castration com- plex) của họ gây nên hậu quả là họ xem chính mình
như “những đàn ông khiếm khuyết” (homes manqués) hơn là
một giới tính tích cực riêng về phần họ. Ernest Jones là người đầu tiên đặt tên
cho lí thuyết của Freud là “trung tâm dương vật”/ phallocentric, một thuật ngữ
được áp dụng rộng rãi bởi những nhà nữ quyền khi thảo luận về sự thống trị nói
chung của đàn ông.
Juliet Mitchell, trong cuốn Phân
tâm học và nữ quyền (Psychoanalysis and Feminism, 1975),
bảo vệ Freud, biện luận rằng “phân tâm học không phải là một sự bênh vực cho
một xã hội phụ quyền nhưng là một sự phân tích về điều đó”. Bà tin rằng, Freud,
đang mô tả đại diện tinh thần về một thực tế xã hội, không phải chính thực tế.
Sự bảo vệ của bà về khái niệm sự ghen tị dương vật và những quan niệm về sự
khác biệt giới tính của Freud đã được nhiều nhà nữ quyền thấy là không có sức
thuyết phục. Sự khôi phục của bà về Freud phần nào nhờ vào Lacan nhưng, như
Jane Gallop chỉ ra trong cuốn Nữ quyền và phân tâm học (Feminism
and Psychoanalysis, 1982), Mitchell bỏ sót sự sử dụng mang tính chiến lược
của Lacan về ngôn ngữ học của Saussure.
Không thể tránh được là những
nhà nữ quyền phản ứng cay đắng với một quan điểm về đàn bà như “thụ động, ái
kỉ, khổ dâm và ghen tị dương vật” (Eagle- ton), như không có gì trong chính bà
nhưng chỉ đo lường được trong mối quan hệ với một tiêu chuẩn đàn ông. Tuy
nhiên, vài nhà nữ quyền Pháp nhấn mạnh rằng “dương vật” (penis) hay “hình tượng
dương vật” (phallus) của Freud là một ý niệm “tượng trưng” và không là một thực
tại sinh học. Việc Lacan sử dụng thuật ngữ này vận dụng những hàm ý cổ đại về
hình tượng dương vật trong những tín ngưỡng phồn thực. Từ ngữ này cũng được sử
dụng trong văn học thần học và nhân loại học với sự quy chiếu về ý nghĩa tượng
trưng của cơ quan này như quyền lực.
Một trong những biểu đồ của
Lacan được những nhà nữ quyền thấy hữu ích trong việc làm rõ tính độc đoán của
những vai trò giới tính.
Kí hiệu đầu tiên có tính
“tiếu tượng”, và miêu tả sự tương ứng “tự nhiên” giữa từ ngữ và vật thể. Kí
hiệu này tóm tắt khái niệm cũ trước thời Saussure về ngôn ngữ, theo đó những từ
ngữ và những vật thể xuất hiện được thống nhất một cách tự nhiên trong một ý
nghĩa phổ quát. Biểu đồ thứ hai phá hủy sự hài hòa cũ: những cái biểu thị của
“những quý bà” và “những quý ông” bị gắn vào những cánh cửa đồng nhất. Những
cánh cửa “giống nhau” được làm để đi vào hệ thống khu biệt của ngôn ngữ, để làm
chúng ta thấy chúng như “khác biệt”. Trong cùng cách ấy “đàn bà” là một cái
biểu thị, không phải là một đàn bà sinh học. Không có sự tương ứng đơn giản nào
giữa một thân thể riêng với cái biểu thị “đàn bà”. Tuy nhiên, điều này không có
nghĩa rằng, nếu chúng ta lấy đi tấm biển xuyên tạc của cái biểu thị, thì một
người đàn bà “có thực”, “tự nhiên”, sẽ ra ánh sáng như chị ta ắt là trước sự
bắt đầu biểu tượng hóa. Chúng ta không bao giờ có thể bước ra ngoài tiến trình
của việc tạo nghĩa lên trên một nền tảng trung tính nào đó. Bất cứ sự đề kháng
nữ quyền nào với chủ nghĩa trung tâm dương vật (sự thống trị của dương vật như
một cái biểu thị) phải đến từ bên trong tiến trình tạo nghĩa. Cái biểu thị thì
quyền lực hơn so với “chủ thể”, người “tàn tạ” và chịu “sự thiến hoạn”. Đàn bà
đại diện cho một vị thế chủ thể đã bị lưu đày ra bóng tối bên ngoài (“lục địa
tối tăm”) bằng quyền lực thiến hoạn của chủ nghĩa trung tâm dương vật, và quả
thực, bởi vì sự thống trị như thế làm thông qua diễn ngôn, bằng “chủ nghĩa
trung tâm lí tính dương vật” (phallogocentrism) (sự thống trị bởi luận lí dương
vật).
Đối với Lacan câu hỏi về chủ
nghĩa trung tâm dương vật thì không thể tách rời khỏi cấu trúc của kí hiệu. Cái
biểu thị, tức là hình tượng dương vật, đưa ra hứa hẹn về sự có mặt và quyền lực
đầy đủ, thứ mà, vì nó là không thể đạt được, đe doạ cả hai giới tính với “phức
cảm thiến hoạn”. Phức cảm này được cấu trúc đúng hệt như ngôn ngữ và vô thức:
sự gia nhập của chủ thể cá nhân vào ngôn ngữ sản xuất ra một “sự chia chẻ” như
một hậu quả của cảm thức về mất mát của chủ thể khi những cái biểu thì không
làm tròn lời hứa về một sự có mặt đầy đủ. Đàn ông và đàn bà, trong những cách
khác nhau, thiếu sự toàn thể của tính dục đã được biểu tượng hóa trong hình
tượng dương vật. Những nhân tố xã hội và văn hóa, như là những khuôn sáo phái
tính, có thể nhấn mạnh hay giảm trừ sự tác động của “sự thiếu” vô thức này,
nhưng hình tượng dương vật, vốn là một cái biểu thị về sự có mặt đầy đủ và
không phải là một bộ phận cơ thể, vẫn còn là một nguồn gốc phổ quát về “phức cảm
thiến hoạn”: sự thiếu mà nó hứa làm đầy không bao giờ có thể được làm đầy cả.
Lacan thỉnh thoảng gọi cái biểu thị tha thiết này là “Tên Cha”, do đó nhấn mạnh
cái phương thức tồn tại không “có thật” của nó, không thuộc sinh học của nó.
Mọi con người tổ chức mối quan hệ của họ về yêu thương và thù ghét xung quanh
câu hỏi về sự có mặt hay vắng mặt của hình tượng dương vật. Sự nhấn mạnh này
trên một kiểu mẫu phổ quát là tiêu biểu của cấu trúc luận.
Vai trò của người cha thì
cũng có đặc quyền trong tiến trình dẫn tới sự hình thành của những cá nhân hoàn
toàn phái biệt. Sự tường thuật của Lacan về phức cảm Ơ-đíp theo Freud mô tả ba
giai đoạn:
1. Bé nam đồng hóa hoàn toàn
với người mẹ, và những ước mong, một cách vô thức, để làm đầy đủ mọi thứ thiếu
trong bà. Bởi vậy em đồng hóa với hình tượng dương vật, đối tượng của dục vọng
của mẹ em, và khi làm vậy trình ra chính mình như một khoảng trống đơn thuần.
2. Người cha ngăn cấm cả sự
đồng hóa của đứa trẻ với hình tượng dương vật lẫn sự chấp nhận khả dĩ của người
mẹ về sự đồng hóa này. Như thế, đứa trẻ hội ngộ Luật của cha thứ đe doạ em với
“thiến hoạn”.
3. Đứa trẻ rồi đồng hóa với
người cha, như người có hình tượng dương vật (không ai thực sự có nó), và hình
thành một cảm thức về căn cước của chính mình như một hữu thể một ngày kia sẽ
chiếm vị trí cha. Đứa trẻ ức chế dục vọng nguyên thủy của em và thay vì thế
chấp nhận Luật (cái mà Freud gọi là “nguyên lí thực tại”).
Đứa trẻ chỉ đạt được một cảm
thức về căn cước bằng cách gia nhập vào trật tự “tượng trưng” của ngôn ngữ, thứ
được cấu thành từ mối quan hệ của sự tương tự và sự
khác biệt. Chỉ bằng cách chấp nhận những sự loại trừ (nếu có cái này, thì
không có cái kia) áp đặt bởi Luật của Cha thì đứa trẻ mới có thể gia nhập không
gian được phái biệt mà trật tự ngôn ngữ chỉ định cho nó. Thiết yếu là phải để
thừa nhận bản chất ẩn dụ về vai trò của người cha. Ông được đặt trong vị thế
của người làm luật không bởi ông có một chức năng sinh sản cao hơn [so với
người mẹ] (mặc dù người ta tin vào điều này trong quá khứ) nhưng chỉ là như một
hiệu ứng của hệ thống ngôn ngữ học. Người mẹ thừa nhận tiếng nói của người cha
bởi vì bà có tiếp cận cái biểu thị của chức năng cha (Tên
Cha), thứ điều chỉnh dục vọng trong một cách “văn minh hóa” (có nghĩa là bị ức
chế). Chỉ bằng cách chấp nhận sự thiết yếu của sự khác biệt giới tính (hoặc cái
này/ hoặc cái kia) và đã được dục vọng thì một đứa trẻ mới có thể được “xã hội
hóa”.
Những nhà nữ quyền đôi khi
phản đối rằng, dù cho chúng ta có một quan điểm “tượng trưng” nghiêm ngặt về
hình tượng dương vật, vị thế đặc quyền trong sự tạo nghĩa được ban cho nó trong
những lí thuyết của Lacan thì hoàn toàn bất tương xứng. Theo Jane Gallop, sự áp
dụng những phạm trù của Lacan vào sự khác biệt giới tính dường như không thể
tránh bao hàm một sự phụ thuộc của tính dục nữ. Người đàn ông bị “thiến hoạn”
bởi không là sự đầy đủ toàn thể được hứa hẹn bởi hình tượng dương vật, trong
khi người đàn bà bị “thiến hoạn” bởi không là đàn ông. Việc người đàn bà đi qua
phức cảm Ơ-đíp thì không phân minh như thế. Trước hết, chị phải thuyên chuyển
lòng thương mến của chị từ mẹ tới cha trước khi Luật của Cha có thể ngăn cấm sự
loạn luân, và thứ hai, bởi chị đã bị “thiến hoạn” rồi, thật khó thấy trong
trường hợp của chị cái gì thế chỗ cho sự bị thiến hoạn đe doạ trong sự phát triển
của đàn ông. Điều gì ở đó để buộc sự chấp nhận của chị về Luật? Mặc dù vậy, sự
thuận lợi về cách tiếp cận của Lacan là rằng nó thoát khỏi quyết định luận sinh
học, và đặt phân tâm học theo Freud vào trong việc tiếp xúc với hệ thống xã hội
(thông qua ngôn ngữ).
Như Jane Gallop đã ghi nhận,
Lacan có khuynh hướng xúc tiến một diễn ngôn trung tâm phản lí tính nữ quyền (a
feminist anti-logocentric discourse). Mặc dù không là nữ quyền một cách có ý
thức, ông thì làm duyên, vui đùa và thơ mộng, từ chối xác nhận những kết luận,
hay thiết lập những chân lí. Khi ông gợi lại câu hỏi không trả lời được của
Freud “Đàn bà muốn gì? (Was will das weib?), ông kết luận rằng câu hỏi
vẫn còn là mở bởi vì tính nữ thì “lưu động”, và sự lưu động thì “không vững
chắc”. “Đàn bà không bao giờ nói giống (pareil) (tương
tự, ngang bằng, giống như). Cái chị phát ra thì trôi chảy (lưu loát/ fluent).
Lừa dối (flouant).” Một lần nữa, có một sự nguy hiểm về sự trượt lại vào
một hệ thống trung tâm dương vật mà gạt đàn bà sang bên lề, loại họ ra như là
không vững chắc, không thể tiên đoán và hay thay đổi. Cái dường như ngăn cản
một sự phục hồi như thế của “sự cởi mở” đàn bà với hệ thống phụ quyền là sự ưu
đãi đặc quyền tích cực về sự cởi mở này. Tính dục đàn bà thì trực tiếp liên kết
với năng suất thơ mộng – với những động hướng tâm thể (psychosomatic drives)
ngắt đi sự chuyên chế của ý nghĩa đơn nhất và diễn ngôn trung tâm lí tính (và
bởi vậy là trung tâm dương vật lí tính). Những nhà lí thuyết chủ chốt của quan
điểm này là Julia Kristeva và Hélène Cixous.
Tác phẩm của Kristeva thường
lấy khái niệm trung tâm của nó là một sự đối cực giữa những hệ thống duy lí
“đóng” và những hệ thống “phi lí” gây rối “mở”. Bà đã cho rằng thơ ca là địa
điểm đặc quyền của sự phân tích, bởi vì nó thì cân bằng giữa hai mẫu của hệ
thống; và ở những thời điểm thơ ca tự mở ra với những xung động cơ bản của dục
vọng và sợ hãi vốn hoạt động bên ngoài những hệ thống “duy lí”. Chúng ta đã
thảo luận sự khu biệt quan trọng của bà giữa cái “kí hiệu học” (the semiotic)
và cái “tượng trưng” (the symbolic), phân cực này là mẹ của nhiều sự phân cực
khác. Trong văn học tiên phong, những tiến trình sơ đẳng (như miêu tả trong
phiên bản của Lacan về lí thuyết của Freud về những giấc mơ) xâm lấn sự trình
tự duy lí về ngôn ngữ và đe doạ ngắt đi chủ thể tính thống nhất của “người nói”
và người đọc. “Chủ thể” không còn được nhìn thấy như nguồn gốc của ý nghĩa
nhưng như địa điểm của ý nghĩa và vì vậy có thể trải qua một “sự phát tán”
triệt để của căn cước và sự mất mát về mạch lạc. “Những động hướng” đã trải qua
bởi đứa trẻ trong giai đoạn tiền Ơ-đíp thì giống như một ngôn ngữ nhưng chưa
được trình tự hóa thành một ngôn ngữ. Để chất liệu “kí hiệu học” này trở thành
“biểu tượng” nó phải được ổn định, và điều này bao hàm ức chế những động hướng
lưu động và có tiếp điệu. Sự phát ngôn gần đúng nhất với một diễn ngôn kí hiệu
học là tiếng bập bẹ tiền Ơ- đíp của đứa trẻ. Tuy nhiên, ngôn ngữ tự thân vẫn
giữ lại phần nào cái trào lưu kí kiệu học này và thi sĩ được hòa nhịp một cách
chuyên biệt để rút ra những sự cộng hưởng của nó. Bởi vì những động hướng tâm
thể là ở thời tiền Ơ-đíp, chúng liên kết với thân thể của người mẹ. Biển [nước
ối] trôi nổi tự do của dạ con và tính nhục cảm bao quanh của đôi bầu vú người
mẹ là những chốn đầu tiên của kinh nghiệm tiền Ơ-đíp. Như vậy tính kí hiệu học
thì không thể tránh liên kết với thân thể đàn bà, trong khi cái “biểu tượng”
thì liên kết với Luật của Cha thứ kiểm duyệt và ức chế cốt để diễn ngôn có thể
phát sinh. Đàn bà là sự yên lặng của vô thức có trước diễn ngôn. Chị là Kẻ
Khác, đứng bên ngoài và đe doạ ngắt đi trật tự ý thức (duy lí) của tiếng nói.
Mặt khác, bởi vì giai đoạn
tiền Ơ-đíp thì chưa được phân hóa về tính dục, kí hiệu học không mang tính nữ
một cách bất lưỡng thanh [đơn thanh]. Người ta có thể nói rằng Kristeva đòi
quyền thay mặt cho phụ nữ với sự tuôn chảy không bị ức chế và không mang tính
ức chế này của năng lượng giải phóng. Nhà thơ tiên phong, đàn ông hay đàn bà,
đi vào Thân Mẹ và chống lại Tên Cha. Mallarmé, chẳng hạn, bằng cách dấy loạn
những luật lệ của cú pháp, phá vỡ Luật cha, và đồng hóa với người mẹ thông qua
sự khôi phục của ông về cái trào lưu kí hiệu học mẫu tính. Kristeva nhìn thấy
cuộc cách mạng thơ ca như liên kết mật thiết vơi cuộc cách mạng chính trị nói
chung và sự giải phóng nữ quyền nói riêng: phong trào nữ quyền phải sáng chế
một “dạng của chủ nghĩa vô chính phủ” mà sẽ tương ứng với diễn ngôn của tiên
phong. Chủ nghĩa vô chính phủ thì không thể tránh vị thế triết học và chính trị
được chấp nhận bởi một nữ quyền đã quyết định phá hủy ưu thế của chủ nghĩa
trung tâm lí tính dương vật. Kristeva, không giống như Cixous và Irigaray
(những người chúng ta sắp thảo luận) không xử lí đàn bà như khác biệt trong
nguyên tắc với sự áp bức lên những nhóm bị gạt bên lề và bị bóc lột. Nữ quyền bước
đầu của cô là bộ phận của một lí thuyết rộng hơn và chung hơn của sự phá vỡ và
sự bất đồng. Có lẽ chẳng ngạc nhiên rằng chủ nghĩa vô chính phủ của cô đã mới
đây dẫn dắt cô rời khỏi sự đồng tình Marxist và nữ quyền về phía một sự mê
luyến với chủ nghĩa tư bản tự do Mĩ.
Nhiều nhà nữ quyền Pháp (bao
gồm Chantal Chawa, Xavière Gauthier và Luce Irigaray) biện luận rằng tính dục
đàn bà là một thực thể ngầm và không được biết đến. Tiểu luận của Hélène
Cixous, “Tiếng cười của nàng Medusa” (1976) là một bản tuyên ngôn nổi tiếng của
văn viết đàn bà mà kêu gọi phụ nữ đặt thân thể của họ vào văn viết của mình.
Trong khi Virginia Woolf từ bỏ cuộc đấu tranh cho sự nói về thân thể đàn bà,
Cixous viết một cách mê mẩn về vô thức phong phú của đàn bà: “Hãy viết về chính
bạn. Cơ thể của bạn phải được nghe thấy. Chỉ khi đó thì những nguồn năng bao la
của vô thức mới tuôn trào. Không có tâm trí đàn bà phổ quát; trái lại trí tưởng
tượng đàn bà thì vô tận và đẹp. Người viết nữ thực sự được giải phóng, khi chị
hiện hữu, sẽ nói:
Tôi… trào dâng, những dục
vọng của tôi đã phát minh ra những dục vọng mới, thân thể tôi biết những bài
hát chưa ai từng nghe. Lần này và nhiều lần nữa… Tôi cảm thấy đầy ắp những thác
nước long lanh mà tôi có thể bùng ra – bùng ra với muôn hình thể đẹp hơn rất
nhiều so với những thứ được đóng khung và bán kiếm tiền thối tha.
Bởi vì văn viết là chốn mà tư
tưởng dấy loạn có thể nảy mầm, đặc biệt xấu hổ khi phần lớn truyền thống trung
tâm dương vật thành công trong việc không cho đàn bà có tiếng nói của họ. Người
đàn bà phải giải trừ sự kiểm duyệt chính mình, lấy lại “thứ của chị, những cơ
quan của chị, những địa hạt thân thể bao la của chị đã bị giữ dưới dấu triện.”
Chị phải loại bỏ sự phạm tội của mình (vì là quá nóng bỏng hay quá lạnh lùng,
quá giống mẫu tính hay thiếu mẫu tính, vân vân). Trái tim của lí thuyết của
Cixous là sự bác bỏ của bà về lí thuyết: văn viết nữ quyền “sẽ luôn vượt lên
trên diễn ngôn điều khiển hệ thống trung tâm dương vật”. Tuy nhiên, một sự mâu
thuẫn chắc chắc mở ra trong tác phẩm của Cixous như hậu quả về những món nợ của
bà với Derrida và Lacan. Sự quan tâm của bà với trò chơi tự do của diễn ngôn
bác bỏ chủ nghĩa sinh học, nhưng việc bà nêu đặc quyền của thân thể phụ nữ
dường như ôm chặt nó. Một mặt, bà bác bỏ sự đối lập cơ số hai giữa phái nam với
phái nữ, và ôm chặt vào nguyên lí về “sự khác biệt” (différance) của Derrida;
Mặt khác, bà liên hệ “văn bản phái nữ” với giai đoạn Hình tượng (Imaginary)
tiền Ơ-đíp của Lacan mà trong đó sự khác biệt bị hủy bỏ trong một sự thống nhất
không tưởng tiền ngôn ngữ của đứa trẻ và thân thể người mẹ. Việc quay về với Mẹ
Hiền mang tính giải phóng này là nguồn gốc của viễn kiến thơ ca của Cixous về
văn viết đàn bà và mở ra khả năng của một mẫu tính dục mới.
Cixous chống lại một hạng của
lưỡng tính trung lập đã được tán thành bởi Virginia Woolf, và thay vì đó bênh
vực điều bà gọi là “lưỡng tính khác” thay vì từ chối “hủy bỏ những sự khác biệt
lại kích động chúng”. Bài nghiên cứu Sarrasine của Barthes là một ví dụ hoàn
hảo của lưỡng tính tự sự. Quả thực, sự tường thuật của Cixous về tính dục đàn
bà thường nhắc người ta nhớ về sự miêu tả của Barthes về văn bản tiên phong.
“Một thân thể của đàn bà”, Cixous viết, “với một nghìn lẻ một ngưỡng cửa của sự
hăng say… sẽ làm cho tiếng mẹ đẻ riêng in dấu xưa vang vọng còn hơn là một ngôn
ngữ.” Bà đang nói về “sự khoái lạc” (jouissance), mà trong đó Barthes và
Kristeva, kết hợp những hàm ý về cực khoái tính dục với tiếng nói đa nghĩa; lạc
thú của văn bản, hủy bỏ tất cả, những ức chế, chạm tới một cuộc khủng hoảng gay
gắt (cái chết của nghĩa). Sự vi phạm này về luật lệ của diễn ngôn trung tâm
dương vật là nhiệm vụ đặc biệt của nhà văn nữ. Vốn luôn luôn vận hành bên trong
diễn ngôn bị đàn ông thống trị, đàn bà cần “phát minh cho chính chị một ngôn
ngữ để nhập vào bên trong.”
Lối xúc tiến của Cixous thì
mang tính viễn kiến, tưởng tượng một ngôn ngữ có thể hơn là miêu tả một ngôn
ngữ đang hiện hữu. Nó mang nguy cơ như những lề lối xúc tiến khác, đã thảo
luận, vì đẩy đàn bà vào trong một sự rút lui vô thức mờ mịt nơi mà im lặng ngự
trị chỉ bị gián đoạn bởi “tiếng ú ớ” của dạ con. Nguy cơ này được Kristeva hiểu
biết thấu đáo, bà nhìn những nhà văn nữ, như trong cung cách mà Virginia Woolf
nhìn nhận họ, như bị kẹt giữa cha và mẹ. Một mặt, với tư cách nhà văn, họ không
thể tránh va chạm với “ưu thế dương vật, kết hợp với mối quan hệ cha-con gái
đặc quyền, thứ làm dấy lên khuynh hướng về tự chủ, khoa học, triết lí, hàn lâm,
vân vân…”. Mặt khác, “chúng ta chạy trốn mọi thứ được cho là ‘hình tượng dương
vật’ để tìm ra sự ẩn náu trong sự đề cao về một thân thể dưới mặt nước im lặng,
do đó thoái vị bất cứ lối đi nào vào lịch sử”.
Spéculum de l’autre femme (Gương
soi cửa mình của người nữ khác, 1974) của Luce Irigaray phát triển, bằng
những hạn từ triết học nghiêm ngặt hơn, những ý tưởng mà giống với Cixous. Bà
cho rằng sự áp bức phụ quyền đối với đàn bà được xây dựng trên mẫu của những
cấu trúc phủ định tiêu cực đã kết hợp với lí thuyết của Freud về tính dục đàn
bà. Khái niệm về ‘sự ganh tị dương vật’, chẳng hạn, được thiết lập trên một cái
nhìn về đàn bà như kẻ khác của đàn ông: chị thiếu dương vật mà anh sở hữu (một
cách mong manh). Chị không được xem xét như hiện hữu chút nào cả ngoại trừ như
một hình ảnh trong gương phủ định của một người đàn ông. Trong ý nghĩa này đàn
bà thì vô hình đối với cái nhìn đăm đăm của đàn ông và chỉ có thể đạt được thứ
đời sống hoang tưởng trong chứng bệnh ưu uất và trong huyền bí. Đàn bà giống
như nhà huyền bí, có khả năng mất đi tất cả cảm thức của sự tồn tại chủ quan cá
nhân, và bởi vậy có khả năng tuột qua tấm lưới phụ quyền. Tuy nhiên, giống như
Cixous, Irigaray có khuynh hướng sa vào một chủ nghĩa sinh học dễ bị tổn thương
một cách lạ kì khi bà gắng dịch nghĩa sự đặc thù của đàn bà. Trong khi đàn ông
thì hướng về thị giác (họ thì thị dâm như chúng ta đã thấy ở trên), đàn bà tìm
thấy lạc thú trong xúc giác, và bởi vậy văn viết đàn bà thì kết nối với lưu
chất và xúc giác, với kết quả là “‘phong cách’ của chị chống cự và làm nổ tất
cả những dạng thức hình thể, những ý tưởng, những khái niệm được thiết lập vững
chắc.” Cuối cùng, dường như cách duy nhất để định nghĩa về đàn bà là nói rằng
đàn bà thì không thể định nghĩa được.
Với phác thảo của chúng tôi
về thuyết nữ quyền và lí thuyết văn học nữ quyền, tôi hi vọng đã gợi ý được
phạm vi và sự đa dạng trong những cách tiếp cận đã từng tiến triển trong những
năm gần đây. Nó đã chứng tỏ là khó cho những nhà nữ quyền phát triển lí thuyết
mà không vận dụng tới những lí thuyết gia đàn ông. Một vài phụ nữ biện luận
rằng một lí thuyết nữ quyền đầy đủ chỉ có thể nảy sinh từ bên trong kinh nghiệm
đàn bà, hay từ vô thức của họ; đàn bà phải sinh sản ra ngôn ngữ riêng của họ,
và vũ trụ nhận thức của riêng họ, nó có thể không tỏ ra hợp lí với đàn ông. Tuy
nhiên, Hélène Cixous, là nhà tiên tri của Ngôn từ đàn bà, rút ra một cách ý
nghĩa dựa trên những lí thuyết của Barthes và Lacan. Bất chấp những sự khó
khăn, đàn bà có quyền khẳng định giá trị của chính họ, khảo sát ý thức của
riêng họ, và phát triển những dạng thức mới của biểu lộ tương ứng với những giá
trị và ý thức của họ. Những quy điển văn học của quá khứ không thể tránh sự
phải đánh giá lại và tái tạo, khi sự cân bằng quyền lực chuyển đổi giữa những
nhà phê bình nam và nữ, và câu hỏi về phái tính trở nên nổi trội trong những
cuộc tranh luận về lí thuyết. Phê bình phái tính sẽ không bao giờ có thể quy về
một cơ thể được thừa nhận phổ quát về lí thuyết. Trong một cuốn sách gần đây,
Terry Eagleton biện luận rằng cuộc vận động của đàn bà đã thành công trong việc
phát triển sự thống nhất và thách đố nhất về hành động chính trị và văn hóa.
Toàn bộ lí thuyết phê bình mang ‘tính chính trị, theo cái nghĩa là nó luôn tìm
cách kiểm soát thuyết ngôn. Những nhà nữ quyền cố gắng một cách hoàn toàn ý
thức tranh thủ phân chia quyền lực diễn ngôn với nam giới. Bất cứ những chiến
lược lí thuyết nào phục vụ cho mục đích này đều là chất liệu cho cơ sở hoạt
động của họ. Vì lí do này nên lí thuyết phê bình nữ quyền là một tiểu vũ trụ
của toàn thể vũ trụ lí thuyết, trong đó một cuộc tranh giành quyền lực vẫn tiếp
tục không ngớt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét