Tóm tắt:
Tư tưởng nữ quyền với tư cách là một khuynh hướng học
thuật chỉ mới xuất hiện ở phương Tây vào nửa sau thế kỷ XX. Với mục đích phê
phán và giải cấu trúc hệ thống quan điểm lấy nam giới làm trung tâm (androcentric
system) đang thống trị xuyên suốt lịch sử tư tưởng phương Tây, các nhà tư tưởng
nữ quyền đã tiến hành nghiên cứu và định giá lại toàn bộ các lĩnh vực học thuật
và các chủ đề của tư tưởng phương Tây, trong đó mối quan hệ giữa giới và ngôn
ngữ là một mảng đề tài được các nhà tư tưởng nữ quyền đương đại đặc biệt quan
tâm. Trong bài viết này, qua phân tích những kiến giải của nhà tư tưởng nữ
quyền Pháp Hélène Cixous, chúng tôi muốn chỉ ra nét đặc sắc của tư tưởng nữ
quyền đương đại trong vấn đề này.
Từ khóa: Cixous, nữ quyền, giới, l’ecriture feminine
1. Nhà triết học Pháp Michel Foucault (1926
- 1984) từng đưa ra lời nhận định tổng quát rằng, nếu ở thế kỷ XX, cuộc sống và
lao động là điều quan tâm chủ yếu của tư duy lý thuyết, thì bước sang thế kỷ
XX, toàn bộ sự tò mò của chúng ta chuyển sang vấn đề ngôn ngữ. Chia sẻ với nhận
định trên, trong cuốn Những con đường
triết học phương Tây hiện đại, J.K. Melvil nhận định: "[Mối] quan tâm
phổ biến về đề tài ngôn ngữ chiếm hầu như trọn vẹn toàn bộ nền triết học phương
Tây thế kỷ XX. Quan niệm về ngôn ngữ như là ngọn nguồn của các suy tư triết học
và là tiêu điểm của sự thông thái của con người thống trị trong triết học đó"[1].
Một
số nhà triết học đương đại khác thậm chí còn đi xa hơn khi gọi thế kỷ XX là
“thế kỷ phân tích (ngôn ngữ - VP)” để phân biệt với thế kỷ XIX – “thế kỷ tư
tưởng”. Trong bối cảnh ấy, không phải ngẫu nhiên khi vấn đề ngôn ngữ, đặc biệt
là mối quan hệ giữa giới và ngôn ngữ, lại thu hút được sự chú ý của các nhà tư
tưởng nữ quyền đương đại. Có thể nói rằng, các
nhà tư tưởng nữ quyền Pháp là những người có đóng góp lớn trong việc tích hợp
mạnh mẽ những nghiên cứu nữ quyền với vấn đề ngôn ngữ. Họ nỗ lực tạo ra một điểm
nhìn mới về thế giới của riêng người phụ nữ. Họ thuyết minh về hình thức tư duy
ích kỷ điển hình của giống đực rằng, giới nam chỉ “kể” duy nhất về những “tự
sự” của họ. Theo họ, những “tự sự” kiểu đó vừa không khả thi vừa không thể chịu
nổi, bởi vì không thể đồng nhất trải nghiệm của nam giới và nữ giới. Ngoài ra,
“cái Duy nhất” (the One) và “cái
Đúng” (the True) chỉ còn là những
huyền thoại triết học, rằng triết học truyền thống (được cho là sản phẩm của
nam giới) thường không thừa nhận tiếng nói của “cái Đa” (the Many). Đây là điều mà các nhà tư tưởng
nữ quyền đương đại ở phương Tây phản đối. Tư tưởng nữ quyền thiên về cái Đa chứ
không phải cái Duy nhất, bởi vì “women” là số nhiều chứ không phải Một. Như vậy, qua cách phê phán quan
niệm truyền thống, quy mọi thứ về một chân lý duy nhất và bất biến, tư tưởng nữ
quyền đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng trong dòng chảy lịch sử triết học,
tránh được uy quyền do giống đực áp đặt trong lĩnh vực ngôn ngữ.
Khi
bàn luận về mối quan hệ giữa giới và ngôn ngữ, các quan điểm truyền thống
thường dựa trên niềm tin nhất quán rằng, ngôn ngữ là sản phẩm do nam giới tạo
ra và mang đặc trưng của giới tính nam. Trong tác phẩm Ngôn ngữ do nam giới tạo ra (Man-made language), Dale Spender khẳng
định, “nam giới với tư cách là nhóm thống trị đã tạo ra ngôn ngữ, tư tưởng và
thực tại”[2].
Không tán đồng với quan điểm đó, các nhà tư tưởng nữ quyền hậu hiện đại Pháp dựa
trên cơ sở phân tâm học và vận dụng phương pháp giải cấu trúc để giải quyết vấn
đề.
Trong
bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích tư tưởng của Hélène Cixous - người mà
theo chúng tôi là đã có những kiến giải vô cùng đặc sắc về mối quan hệ giữa giới
và ngôn ngữ từ góc nhìn nữ quyền.
2. Hélène Cixous (1937- ) là một trong
những đại biểu quan trọng của chủ nghĩa nữ quyền Pháp đương đại (contemporary French
feminism). Trong sự nghiệp sáng tác của mình, cho đến nay bà đã viết 23 tập
thơ, 6 cuốn sách chuyên khảo, 5 vở kịch và rất nhiều bài báo có giá trị. Từ
thập niên 1970, Cixous bắt đầu chú ý vấn đề mối quan hệ giữa giới và ngôn ngữ bởi
niềm tin sâu sắc rằng giữa hai hiện tượng này có một sợi dây kết nối bền chặt
đến kỳ lạ. Bà đã công bố tiểu luận nổi tiếng Tiếng cười của nàng Medusa (Le rire de la Méduse) để trình bày quan
điểm của mình về vấn đề mối quan hệ giữa giới và ngôn ngữ. Có thể tóm gọn tư
tưởng của Hélène Cixous về vấn đề này trong
hai công đoạn chủ yếu đó là: (1) “phá
hủy”; và (2) “dự thảo”.
Ở
công đoạn thứ nhất, cái mà Cixous muốn phá hủy (có lẽ bà chỉ muốn giải kiến tạo
- deconstruct) đó chính là hệ thống quan
niệm lấy ngôn từ dương vật làm trung tâm (phallogocentric system) để tạo ra
một những hướng đi mới. Cixous viết: “Phallogocentrism là kẻ thù. Của mọi
người.... Và đã đến lúc phải cần phải biến đổi để tạo ra một lịch sử khác”[3].
Hélène
Cixous luôn thể hiện thái độ phê phán mạnh mẽ đối với đặc trưng của nền văn hóa
phương Tây. Trong mắt nhìn của Cixous, đó là một nền văn hóa mang đậm sắc thái nam
quyền. Chia sẻ với quan điểm của Cixous, nhà tư tưởng nữ quyền thực dụng Mỹ
Sandra Gilbert (1936- ) cho rằng, người ta thường dùng phép hoán dụ để mô tả
nét tương đồng giữa cây viết và dương vật (pen
= penis). Điều đó có nghĩa hình tượng dương vật được khoác vào một ý nghĩa
sáng tạo (cũng tương tự như cây viết là
công cụ để tạo sinh văn bản). Vậy nếu cây viết là tượng trưng của dương
vật, Gilbert viết tiếp, thì phụ nữ tạo ra văn bản bằng cái gì? Có lẽ đây cũng
là câu hỏi mà Cixous rất muốn tìm lời giải đáp.
Trong
tư cách là một nhà phân tâm học cả về lý luận và thực tiễn, giống như người
đồng nghiệp Luce Irigaray, Cixous chịu ảnh hưởng khá mạnh từ Freud và đặc biệt
từ nhà phân tâm học Pháp Jacques Lacan. Theo giáo sư Mary Klages, Cixous đã
tiếp tục tại nơi Lacan dừng lại trong quá trình lý giải về địa vị của nam giới và
nữ giới trong cấu trúc của “Trật tự Tượng trưng” (Symbolic Order) và ngôn ngữ. Cixous cho rằng, dưới nhãn quan của
Lacan, ngôn ngữ chỉ là sản phẩm của nền văn hóa phụ quyền, nói cách khác, nó là
một hệ thống lấy ngôn từ dương vật làm trung tâm. Trên cơ sở quan niệm này,
Cixous đi đến kết luận, truyền thống và cấu trúc văn hóa phương Tây về cơ bản
dựa trên quan niệm lấy ngôn từ dương vật làm trung tâm. Nền văn hóa này ngay từ
đầu được cấu trúc bởi các cặp nhị phân đối lập: văn hóa/tự nhiên, tốt/xấu,
nam/nữ, năng động/thụ động, trí tuệ/tình cảm, trật tự/hỗn độn, hiện diện/vắng
mặt, ngôn từ/chữ viết, sáng/tối (trong đó
các thành tố thứ nhất được xem là đại diện cho nam giới, giống đực. Còn các
thành tố thứ hai thuộc về nữ giới, giống cái). Trong những cặp nhị phân đối
lập ấy, thành tố thứ nhất (văn hóa, tốt,
nam, năng động, trật tự, hiện diện, sáng, lời nói) bao giờ cũng được người
ta đánh giá cao hơn so với các thành tố thứ hai (tự nhiên, xấu, nữ, thụ động, hỗn độn, vắng mặt, tối, chữ viết).
Cixous giải thích, tính dục nam cũng như tính dục nữ đã được xác định bởi những
cặp đối lập trên, rằng những mối quan hệ tính dục khác giới đã được xác lập bởi
cảm nhận về sự khác biệt và sự sợ hãi do những cặp đối lập tuyệt đối ấy gây ra.
Từ phương pháp giải cấu (deconstruct), Cixous đã phê phán nghiêm khắc cái nhìn truyền
thống ấy đồng thời khẳng định rằng tất cả các thành tố ấy đều giữ vai trò thiết
yếu như nhau trong việc thiết lập cấu trúc căn bản của nền văn hóa phương Tây.
Nói cụ thể hơn, Cixous phản đối mô hình về sự liên hệ giữa giới tính và sáng
tạo ngôn ngữ của Sigmund Freud và Jacques Lacan. Theo Freud, tính dục nam mang
những đặc tính năng động, sáng tạo, còn tính dục nữ thì thụ động, lệ thuộc.
Quan điểm đó được Lacan triển khai vào lĩnh vực ngôn ngữ thông qua Tượng trưng
và quan niệm lấy ngôn từ dương vật làm trung tâm. Theo lý giải của Lacan, nam giới
ở gần tượng trưng dương vật với tư cách là tâm điểm, trong khi nữ giới do không
có dương vật nên ở xa tâm điểm ấy. Cixous cho rằng, chừng nào nam giới còn chú
tâm vào chuyện viết lách bằng tượng
trưng dương vật của họ, thì họ vẫn chưa khám phá ra được mối liên hệ giữa tính
dục và sáng tạo ngôn ngữ một cách đầy đủ, bởi lẽ “nam giới” xét như một từ biểu
thị trong Tượng trưng, về cơ bản, không có đặc quyền hơn so với từ biểu thị “nữ
giới”.
Trong
công đoạn thứ hai, Cixous muốn dự thảo
những phương án mới về mối quan hệ giữa thân xác phụ nữ và sáng tạo ngôn ngữ.
Để làm điều đó, bà đã đề xướng thuật ngữ “l’ecriture
feminine”(*). Đây là khái niệm
trung tâm trong tư tưởng nữ quyền của Cixous về vấn đề ngôn ngữ. Bà đưa ra khái
niệm này nhằm biện luận cho việc chống lại sự áp đặt quyền thống trị của văn
phong nam giới (l'ecriture masculine) có cơ sở là quan niệm lấy ngôn từ dương
vật làm trung tâm. Hơn nữa, Cixous muốn giải cấu trúc tượng trưng dương vật của
tính dục, đưa đến việc thay thế hệ thống dục vọng của nam giới bằng hệ thống
khoái cảm của nữ giới (bà mượn thuật ngữ
“jouissance” của Lacan để đặt tên cho hệ thống khoái cảm này).
Vậy “l’ecriture feminine” trong kiến
giải của Cixous là gì?
Theo Cixous, văn phong nữ giới biểu hiện
ra như một sự đoạn tuyệt với truyền thống, đồng thời tạo ra một sự biến đổi to lớn
về phong cách sáng tạo ngôn ngữ. Ở đó, toàn bộ hệ thống chân lý phổ quát, bất
biến đồng loạt bị sụp đổ, và người ta chỉ còn thấy một hệ thống xét như một cấu
trúc. Nói cách khác, văn phong nữ giới xem trật tự của Tượng trưng như một cấu
trúc, do vậy nó cũng tạo ra khả năng phá vỡ trật tự ấy, “tạo ra một sự đoạn
tuyệt, hay một sự chuyển biến và thay đổi hiểu theo nghĩa của Derrida”[4].
Cixous hiểu “l’ecriture feminine” ở hai
nội dung chủ yếu:
Thứ
nhất, cá nhân người phụ nữ phải viết ra chính mình, phải tự mình khám
phá những gì thân xác cảm nhận được, và cách thức để diễn tả thân xác ấy bằng
ngôn ngữ. Cụ thể hơn, nữ giới phải tìm thấy được tính dục nữ khởi nguồn từ
trong thân xác của mình và tìm cách viết về cái khoái cảm, cái “jouissance” ấy.
Thứ hai, bản thân cấu trúc của ngôn ngữ sẽ biến đổi khi phụ nữ
nói/viết về thân xác của họ; rằng, vị thế của nữ giới xét như là chủ thể trong
ngôn ngữ sẽ thay đổi một khi họ trở thành chủ thể năng động chứ không phải là
đối tượng tiếp nhận thụ động (thụ nhận). Và, một khi phụ nữ thoát khỏi sự chi
phối của hệ thống quan niệm lấy ngôn từ dương vật làm trung tâm, trong đó ý
nghĩa được “gán chặt” trong một trật tự cố định (hệ thống đã và đang tồn tại,
có khuynh hướng loại bỏ nữ giới) thì họ sẽ tạo ra một hệ thống biểu thị mới, hệ thống này chứa đựng trong nó
sự phong phú hơn, uyển chuyển hơn so với cái trật tự tượng trưng cứng nhắc dựa
trên quan điểm lấy ngôn từ dương vật làm trung tâm đang tồn tại trong nền văn
hóa phương Tây.
Cixous cho rằng, nữ giới phát ngôn không
phỏng theo trạng thái cố định của Trật tự Tượng trưng, không phát ngôn theo
tuyến tính, và ngôn từ của nữ giới không bị khuôn định trong các hình thức sẵn
có. “L’ecriture feminine” không bị đối tượng hóa, xóa nhòa ranh giới giữa ngôn
từ và văn bản, trật tự và hỗn độn, có nghĩa và vô nghĩa,v.v… Theo góc độ này,
“l’ecriture feminine” là một thứ ngôn ngữ không có cấu trúc, có thể đưa chủ thể
sử dụng nó tiến gần với lĩnh vực hiện thực, trở về với thân thể của người mẹ,
với bầu sữa, và cảm nhận về sự hợp nhất không thể tách rời. Đến đây, hình như
Cixous đã tự mình tìm được lời giải đáp cho câu hỏi mà Sandra Gilbert đã đặt
ra. Theo Cixous, nếu như đàn ông dùng hoán dụ dương vật với cây viết, với sự
sáng tạo, thì phụ nữ cũng có thể làm điều đó bằng “mực trắng” (white ink). Đưa
ra lập luận trên, Cixous muốn chuyển tải thông điệp về sự đoàn tụ với thân thể
người mẹ nói riêng, thân thể nữ giới nói chung.
Có một điều đáng chú ý khi nói về
“l’ecriture feminine”, Cixous thường chỉ sử dụng những hình tượng ẩn dụ để mô
tả, chẳng hạn bà ví “l’ecriture feminine” là sữa mẹ, là bài ca, là giai điệu,
là cái không diễn tả bằng ngôn từ... Cixous khẳng định, người ta không thể định
nghĩa “l’ecriture feminine” được vì định nghĩa về một cái gì tức là phải khuôn
định nó, giới hạn nó, cột chặt nó vào trong một cấu trúc ổn định, trong khi
“l’ecriture feminine” thì lại phi cấu trúc, vô cùng uyển chuyển, linh hoạt nên
có thể vượt thoát mọi nỗ lực nhằm lý thuyết hóa nó. “L’ecriture feminine” là
như thế, song điều đó không có nghĩa là nó không tồn tại, thậm chí vị thế của
nó còn vượt trội hơn những hệ thống cấp bậc đang tồn tại trong nền văn hóa lấy
ngôn từ dương vật làm trung tâm ở phương Tây. Cixous quả quyết, “l’ecriture feminine”
là không thể định nghĩa. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể sáng tạo ra nó;
rằng chỉ có phụ nữ (thường bị xem là
“những kẻ chầu rìa”) và những người chống lại hoặc được cách li khỏi cấu
trúc trung tâm của trật tự Tượng trưng lấy ngôn từ dương vật làm trung tâm, mới
có thẩm quyền sáng tạo ngôn ngữ nữ tính.
Khởi phát từ nguồn mạch “l’ecriture
feminine”, Cixous luôn khuyến khích “Tại sao bạn lại không viết? Hãy viết đi!
Viết là vì bạn, bạn là của bạn: thân xác bạn thuộc về bạn, hãy viết về nó”[5].
Thúc giục mạnh mẽ như thế, Cixous muốn “phụ nữ phải viết ra thân xác của mình,
phải viết về chính mình và đem mình vào trong các văn bản”[6],
rằng văn phong nữ tính phải lật đổ hệ thống thứ bậc trước đây của tính dục,
đồng thời khẳng định địa vị của hiện thân tính dục nữ như là chuẩn mực mới của
tính dục. Bà tuyên bố, "tương lai phải không còn được quyết định bởi quá
khứ"[7]
và đã đến lúc phải giải phóng người phụ nữ mới khỏi người phụ nữ cũ bằng việc nhận thức về người phụ nữ
này. Mặc dù rất yêu mến song cần phải nhanh chóng vượt qua người phụ nữ cũ ấy để
hướng đến người phụ nữ mới. Và chỉ thông qua viết, khởi phát từ phụ nữ và về
phụ nữ, đồng thời nhận thách thức từ phía ngôn từ do tượng trưng dương vật đang
ngự trị, nữ giới mới có thể bảo đảm cho mình một chỗ đứng khác, một vị thế cao
hơn, đáng trân trọng hơn.
Trong một đường hướng khác, việc đề xuất
écriture féminine không chỉ mang một
ý nghĩa thực hành ngôn ngữ mà còn mang ý nghĩa của một sự chuyển đổi phong cách
tư duy. Theo nghĩa đó, écriture féminine
không chỉ là hướng đến "viết về thân xác", không chỉ là việc đưa thân
xác (nữ giới) vào trong diễn ngôn mà thể hiện tính dục nữ như là một ẩn dụ và
hình ảnh biểu tượng của nữ tính (femininity).
3. Qua ngòi bút sinh động và đầy quyến rũ về vấn đề mối quan
hệ giữa giới và ngôn ngữ từ ngữ cảnh nữ quyền, Hélène Cixous đã đưa ra những
kiến giải mang tính phê phán vừa nhẹ nhàng vừa quyết liệt đối với các quan điểm
truyền thống mà theo các nhà tư tưởng nữ quyền là mang nặng định kiến giới,
đồng thời đề xuất một phương án “khác” cho vấn đề sáng tạo ngôn ngữ, qua đó "thai
nghén" một phong cách sáng tạo ngôn ngữ rất riêng và thú vị phát xuất từ
những cảm nghiệm đặc trưng của nữ giới. Hơn nữa, việc Cixous đề xướng écriture féminine còn mang một ý nghĩa
tư tưởng rộng lớn hơn đó là tạo ra một bước chuyển quan trọng về phong cách tư
duy mà có người đánh giá là "có thể sánh với (triết học) Martin
Heidegger"[8]. Theo
chúng tôi, nhận định này của Susan Sellers không phải là không có lý.
Truyền
thống thường lưu giữ những giá trị tốt đẹp, tuy nhiên, đổi mới bao giờ cũng cần
thiết để phát triển. Ở đây, sự xuất hiện của tư tưởng nữ quyền của Hélène
Cixous với những kiến giải đặc sắc về mối quan hệ giữa giới và ngôn ngữ mang
dặc trưng của chủ nghĩa nữ quyền Pháp hiện đại đang mở ra một lối đi mới đầy
hứa hẹn trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn, nhất là trong sáng tác văn
học nghệ thuật đương đại.
![]() |
GENDER AND LANGUAGE IN
HÉLÈNE CIXOUS' FEMINIST THOUGHT
Summary:
Feminist
thought as an academic orientation appeared in the West in the second-half of
the twentieth-century. In order to criticize and deconstruct androcentric
system that had been dominating throughout the history of Western thought,
feminist thinkers carried out researches and revalued all academic areas and
themes of Western thought, in which the relation between language and gender
received their special attention. In this paper, by analysizing French feminist
Helene Cixous's interpretations, we would point out special feature of
contemporary feminist thought in this issue.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Cavallaro,
Dani (2003), French feminist theory: An
introduction, London & New York: Continuum.
2. Cixous, Hélène
(1976), "The Laugh of the Medusa",
Signs, Vol.1, No.4. (Summer), pp. 875-893.
3.Fricker, M., Hornsby, J. (eds), Feminism in philosophy, UK : Cambridge University Press,
2000.
4.Mary Klages, "Helene Cixous: The Laugh of the
Medusa", http://www.colorado.edu/English/courses/ENGL2012Klages/cixous.html
5.McHugh, Nancy A., Feminist
philosophies A-Z, Edinburgh: Edinburgh University Press, 2007.
6.Melvil, J.K.,
Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội,
1997.
7.Mục từ "Écriture
féminine" trong www.en.wikipedia.org
[1] J.K. Melvil, Các con đường của triết học phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà
Nội, 1997, tr. 139.
[2] M.
Fricker & J. Hornsby (eds), Feminism in
philosophy, UK :
Cambridge University Press, 2000, p. 87.
[3]
See: Nancy A. McHugh, Feminist philosophies
A-Z, Edinburgh :
Edinburgh University Press, 2007, p. 19.
(*)
Về thuật ngữ này đã có nhiều cách dịch khác nhau như “văn tự phụ nữ”, “văn bản
nữ tính”. Ở đây, tác giả luận văn tạm hiểu “l’ecriture feminine” là văn phong nữ giới nhằm nhấn mạnh nét đặc
trưng trong phong cách sáng tạo ngôn ngữ trên cơ sở giới tính nữ. Vì đây là một
thuật ngữ rất đặc sắc và chưa có sự thống nhất nên người viết giữ nguyên không
dịch.
[4] Dani Cavallaro, French feminist theory: An introduction,
London & New York: Continuum, 2003, p. 123.
[5] Cixous, Hélène,
"The Laugh of the Medusa", Signs,
Vol.1, No.4. (Summer, 1976), p. 876.
[6] See:
Nancy A. McHugh, Ibid, p. 5.
[7] Cixous, Hélène,
"The Laugh of the Medusa",
p. 875.
[8]
Susan Sellers (ed.), The Hélène Cixous Reader, London
and New York :
Routledge, 1997, p. 71.