Thứ Sáu, 3 tháng 2, 2012

LÝ THUYẾT ĐẠO ĐỨC VỀ SỰ QUAN TÂM - MỘT ĐIỂN HÌNH CỦA CÁCH TIẾP CẬN NỮ QUYỀN TRONG ĐẠO ĐỨC HỌC

       Vào nửa sau thế kỷ XX, ở phương Tây đã hình thành một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu đạo đức  - cách tiếp cận nữ quyền. Khi nghiên cứu về các vấn đề đạo đức, các nhà tư tưởng nữ quyền đã đề xuất một lý thuyết đạo đức mới dựa trên sự quan tâm với tư cách là loại hình đối chọn với lý thuyết đạo đức về công lý mà theo họ là đậm màu định kiến giới. Trong bài viết này, chúng tôi tập trung phân tích nội dung của lý thuyết đạo đức về sự quan tâm để qua đó thấy được nét đặc sắc của cách tiếp cận nữ quyền trong đạo đức học.

1. Đạo đức học hay triết học đạo đức là lĩnh vực học thuật đã có lịch sử hình thành phát triển khá lâu đời ở phương Tây, song lại hiếm khi chú ý đến tiếng nói về  nữ giới. Nữ giới hầu như vắng mặt trong truyền thống đạo đức học phương Tây. Sự vắng mặt ấy cũng phần nào chứng minh một sự thật là các lý thuyết đạo đức của nam giới đã thống trị trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nền văn minh phương Tây, cả về mặt phương pháp lẫn khái niệm. Sự thống trị ấy đã gây nên những bất cập trong việc giải quyết các vấn đề đạo đức. Để giải quyết bất cập này, vào thập niên 60 thế kỷ XX, ở phương Tây đã xuất hiện một cách tiếp cận mới trong nghiên cứu các vấn đề của đạo đức học - cách tiếp cận nữ quyền (feminist approach). Ngay từ khi ra đời, cách tiếp cận này đã giới thiệu một lý thuyết đạo đức về sự quan tâm (ethics of care) với tư cách là một điển hình của lý thuyết đạo đức mới đối chọn với lý thuyết đạo đức về công lý mà nam giới đã xây dựng nên.
2. Lý thuyết đạo đức về sự quan tâm ngay từ khi mới ra đời đã gây ra một tiếng vang  trong giới học thuật lúc bấy giờ. Người đầu tiên đề xướng lý thuyết đạo đức về sự quan tâm là nhà tâm lý học, nhà triết học đạo đức Mỹ Carol Gilligan với tác phẩm nổi tiếng Từ một tiếng nói khác (In a different voice). Sau đó, lý thuyết đạo đức về sự quan tâm đã được các nhà triết học nữ quyền bàn luận, phát triển và ứng dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như bảo vệ sức khỏe cộng đồng, giáo dục, chính trị, pháp luật và quan hệ quốc tế... Sự phát triển về mặt triết học của lý thuyết đạo đức về sự quan tâm tập trung làm rõ khả năng đem lại một loại đạo đức đối chọn với các lý thuyết đạo đức về công lý (ethics of justice) đang chi phối nền đạo đức học phương Tây, tiêu biểu nhất là đạo đức học của Kant và lý thuyết đạo đức của chủ nghĩa công lợi (utilitarianism).
      Khi đề xuất khái niệm "sự quan tâm" trong ngữ cảnh đạo đức học, các nhà tư tưởng nữ quyền lưu ý rằng, sự quan tâm ở đây không đơn thuần là vấn đề thuộc về tình cảm, mà còn bao hàm phương diện nhận thức. Trong cách hiểu này, lý thuyết đạo đức về sự quan tâm có thể cho phép cảm xúc và sự đồng cảm thực hiện vai trò quan trọng đối với việc thiết lập một quyết định đạo đức. Đây là vấn đề đã bị loại bỏ trong truyền thống triết học đạo đức về công lý.
        Trong cách nhìn của các nhà tư tưởng nữ quyền, bản thân khái niệm "sự quan tâm" là một khái niệm "mở" đối với những kiến giải và phân tích. Nel Noddings cho rằng, sự quan tâm là ngôn ngữ tự nhiên của nữ giới. Bà hiểu thuật ngữ "quan tâm" không phải trong ngữ cảnh các cá thể riêng biệt mà trong ngữ cảnh "cặp đôi" (pair), trong đó bao gồm người quan tâm (one-caring) và người được quan tâm (one-cared). Một số nhà tư tưởng nữ quyền khác thì lại "mở" sự quan tâm đến một khái niệm rộng hơn là "sự quan tâm đến những người khác" ("caring for others"). Ở đây, người khác không có sự phân biệt về mặt giới tính, chủng tộc, dân tộc, địa vị xã hội.
Các công trình nghiên cứu về đạo đức từ góc nhìn nữ quyền chỉ ra rằng, trong lĩnh vực triết học đạo đức, nam giới có khuynh hướng dựa vào những nguyên lý trừu tượng và truy tìm những mục đích phổ quát. Ngược lại, nữ giới thường chú ý hơn đến những vấn đề đạo đức mang tính riêng tư và cụ thể như sự quan tâm (care), các mối quan hệ cá nhân và vấn đề không làm tổn thương người khác, sự cảm thông giữa các nhân vị và những vấn đề đạo đức thường nhật khác như phân biệt đối xử đối với nữ giới, vai trò của giới tính, bạo lực gia đình, cưỡng bức tình dục, hôn nhân bất bình đẳng.
Cách tiếp cận mới này chỉ ra rằng, nữ giới có những đặc tính riêng, và chúng không hề thấp kém hơn so với các đặc tính của nam giới, thậm chí nhiều khi còn có giá trị ưu trội hơn. Tuy nhiên, vấn đề ở đây không phải ở chỗ nữ giới chối bỏ cơ hội đạt đến những kinh nghiệm và đặc trưng tính cách của nam giới mà là ở chỗ xã hội đã thất bại trong việc tiếp nhận những giá trị chỉ có trong những đặc trưng tính cách của nữ giới. Theo lối tư duy như thế, nam giới thực sự trở thành "thước đo của vạn vật" như cách nói của nhà triết học Protagoras, còn nữ giới thì ngược lại chỉ là "chiếc thước lệch" so với "chiếc thước chuẩn" nam giới. Để giải quyết vấn đề này, từ nỗ lực tìm kiếm những cơ hội để nữ giới cạnh tranh với quan điểm truyền thống của nam giới, các nhà tư tưởng nữ quyền muốn kêu gọi sự bình đẳng trong các vấn đề đạo đức và sự tôn trọng đối với những mối bận tâm đặc trưng của nữ giới. Cách tiếp cận nữ quyền trong đạo đức đã mang lại một nội dung rất phong phú và đặc sắc, trong đó điển hình là lý thuyết đạo đức về sự quan tâm. Lý thuyết này bao hàm những nội dung cụ thể sau:
Thứ nhất, lý thuyết đạo đức về sự quan tâm đặc biệt chú ý đến ý nghĩa quan trọng về mặt đạo đức của việc đáp ứng nhu cầu của những người có quan hệ thân thuộc mà chúng ta phải có trách nhiệm quan tâm như con cái, cha mẹ, anh chị em trong gia đình… Lý thuyết đạo đức về sự quan tâm thừa nhận, con người luôn gắn liền vào cuộc sống của mình và những tuyên bố đạo đức về điều đó cũng tuỳ thuộc vào việc chúng ta nhấn mạnh sự quan tâm, cũng như tầm quan trọng của những khía cạnh đạo đức trong quá trình phát triển các mối quan hệ quan tâm cho phép một con người sống tốt hơn và tiến bộ hơn bởi lẽ mọi người đều cần đến sự quan tâm trong quá trình tồn tại và phát triển của mình.
Triển vọng của sự tiến bộ của con người và việc phát triển dựa trên cơ sở sự quan tâm là những điều cần phải nhận thức, và lý thuyết đạo đức về sự quan tâm nhấn mạnh tác dụng đạo đức của trách nhiệm để trả lời cho những nhu cầu lệ thuộc. Những người già yếu buộc phải sống phụ thuộc trong những giai đoạn cuối đời, hoặc như một số người ốm đau hay mắc bệnh hiểm nghèo thì cần phải được quan tâm, chăm sóc trong hầu như toàn bộ phần đời còn lại. Những quy luật đạo đức được xác lập trên cơ sở lý trí truyền thống hầu như không chú ý đến thực tại của sự phụ thuộc của con người trong xã hội và những quy luật đạo đức của nó. Lý thuyết đạo đức về sự quan tâm hướng sự chú ý đến những mối quan tâm căn bản của cuộc sống con người, đồng thời chỉ ra những giá trị đạo đức có liên quan. Nó phản đối việc xem xét sự quan tâm như là một lĩnh vực "bên ngoài tính đạo đức" (outside morality). Các nhà tư tưởng nữ quyền đề xuất rằng, cách thức quan tâm đến người khác nên được kết hợp với những tuyên bố về công lý phổ quát từ góc độ đạo đức. Đây là một vấn đề mà theo họ, cần và hơn thế nên được khẳng định và nghiên cứu kỹ lưỡng.
Thứ hai, trong quá trình nỗ lực nhận thức những điều mà tính đạo đức đặt ra và những điều tốt đẹp nhất về mặt đạo đức mà chúng ta thực hiện, thì lý thuyết đạo đức về sự quan tâm đề cao giá trị của xúc cảm chứ không chối bỏ nó. Cố nhiên, không phải toàn bộ xúc cảm đều được xem xét từ góc nhìn giá trị, song trái ngược với những cách tiếp cận đạo đức học duy lý đang thịnh hành, thì trong lý thuyết đạo đức về sự quan tâm, những trạng thái xúc cảm như sự đồng cảm, tình yêu thương... được nhìn nhận như là những trạng thái tình cảm đạo đức "cần được nuôi dưỡng không chỉ giúp ích trong việc bổ sung cho tiếng nói của lý tính mà còn để xác định một cách chính xác hơn những đòi hỏi của tính đạo đức"[1]. Thậm chí, giận dữ với tư cách là một thành tố của sự phẫn nộ đạo đức (moral indignation) cũng có thể được thừa nhận mỗi khi con người bị đối xử bất công và phi nhân tính, và nó cũng có thể góp phần (chứ không phải là ngăn cản) tác thành một sự kiến giải thích hợp về những khuyết điểm đạo đức. Điều đó không đồng nghĩa là xúc cảm sống động có thể trở thành một người dẫn đường đến tính đạo đức, song những xúc cảm ấy cần được nhận thức và giáo dục để có thể phát huy được tầm quan trọng của nó trong đời sống đạo đức của con người.
Một điểm đáng chú ý là trong viễn tượng của sự quan tâm, những nghiên cứu đạo đức hoàn toàn dựa trên cơ sở những suy luận duy lý trở nên còn không đầy đủ và thiếu căn cứ. Trong khi các lý thuyết đạo đức duy lý phủ nhận hoặc đem những hình thái cảm xúc sống động của con người ra phán xét tại tòa án của lý tính, và sau cùng là kết tội những cảm xúc vị kỷ (egoistic feelings) ấy là kẻ gây phá hoại hoặc kìm hãm đối với những chuẩn mực đạo đức phổ quát, thì ngược lại, trong lý thuyết đạo đức về sự quan tâm, những xúc cảm và năng lực liên hệ được định đúng như giá trị của chúng, qua đó cho phép những cá nhân được sống một cách tự do trong ngữ cảnh liên nhân vị (interpersonal situation) và có thể hiểu được những gì là tốt nhất đối với họ. Tuy nhiên, rắc rối là ở chỗ, trong thực tế những xúc cảm đôi khi cũng có thể trở nên lầm lạc và tồi tệ. Chẳng hạn như sự quan tâm dành cho người khác một cách thái quá thì nhiều khi lại dẫn đến phiền phức và khó chịu vì đời sống riêng tư bị xâm phạm, hoặc dễ gây ra nơi người được quan tâm một cảm giác bị chi phối. Để tránh điều đó, nghiên cứu nữ quyền về đạo đức đưa ra yêu cầu: "Sự quan tâm là cần thiết, nhưng điều chúng ta cần là một lý thuyết đạo đức về sự quan tâm, chứ không phải là bản thân sự quan tâm... Những khía cạnh và những kiến giải khác nhau về sự quan tâm và những mối quan hệ quan tâm cần thiết phải được đặt thành vấn đềđánh giá trong các khảo cứu đạo đức, chứ không đơn giản chỉ là quan sátmô tả"[2]. Nghĩa là, phương cách để quan tâm đạt được hiệu quả và hữu ích thì cần phải quan tâm một cách có đạo đức và phải sự quan tâm ấy phải được đặt trong một ngữ cảnh đạo đức.
Thứ ba, lý thuyết đạo đức về sự quan tâm bác bỏ cách xem xét của những lý thuyết đạo đức duy lý truyền thống. Theo suy nghĩ của các nhà tư tưởng nữ quyền, trong các lý thuyết đạo đức duy lý, lập luận về một vấn đề đạo đức thì càng trừu tượng càng tốt. Vì thế, càng tránh xa những định kiến và sự độc đoán, thì càng tiến gần hơn đến việc đạt được tính vô tư. Lý thuyết đạo đức về sự quan tâm tự nó luôn tôn trọng những người có mối quan hệ thân thuộc trong hiện thực. Nó "đặt vào ngoặc" những quy tắc trừu tượng và phổ quát của các lý thuyết đạo đức duy lý. Theo lý giải của các nhà tư tưởng nữ quyền, những lý thuyết đạo đức duy lý khi xem xét về những mối quan hệ thân thuộc (ví dụ như mối quan hệ giữa cha mẹ và con cái) thì thường không nói bất cứ điều gì về những mối quan hệ sống động, cụ thể và hiện thực, mà xem những mối quan hệ ấy như là điều đã được thừa nhận đồng thời dành cho chúng một địa vị ưu tiên mà một người có thể có. Họ còn có xu hướng thừa nhận một nghĩa vụ chung, phổ quát cho tất cả các bậc cha mẹ trong việc quan tâm, chăm sóc con cái. Như vậy, các nhà đạo đức học duy lý giả định không có sự liên hệ hiện thực nào giữa các cá nhân. Không đồng ý với quan điểm truyền thống đó, quan điểm đạo đức về sự quan tâm chú trọng đến tính cụ thể của các mối quan hệ hiện thực hơn là nghe theo tiếng gọi của một lý tính trừu tượng phổ quát. So sánh hai kiểu quan điểm đạo đức này, Kittay và Mayer cho rằng, một tính đạo đức về các quyền và lý tính trừu tượng khởi đầu với một thực thể đạo đức tách biệt với người khác và thiết lập quyết định một cách độc lập với những nguyên lý đạo đức phổ quát. Trái lại, một tính đạo đức về trách nhiệm và quan tâm khởi đầu với một bản ngã nằm trong một mạng lưới các mối quan hệ với người khác, và những suy tư đạo đức cũng nhắm đến khẳng định những mối quan hệ ấy. Chính những mối quan hệ này, đến lượt mình lại quy định trách nhiệm đạo đức của con người trong đời sống xã hội.
Với hầu hết những người chủ trương lý thuyết đạo đức về sự quan tâm, sự kết hợp tuyên bố đạo đức về người khác có thể có giá trị ngay cả khi nó xung đột với những phán đoán đạo đức phổ quát hóa được xây dựng bởi các lý thuyết đạo đức. Vì thế, trong mối quan hệ giữa quan tâm và công lý, tình bằng hữu và tính vô tư, lòng trung thành và tính phổ quát, luôn tồn tại sự xung đột tiềm tàng. Nhưng với một số khác, sự xung đột đó là không cần thiết nếu những phán đoán phổ quát hòa hợp với những chuẩn mực của sự quan tâm vốn không được nhìn nhận trước đây.
Annette Baier đã chỉ ra sự khác biệt giữa phương thức tiếp cận nữ quyền về tính đạo đức và phương thức tiếp cận trong đạo đức học của Kant, đồng thời phê phán cái nhìn của Kant cho rằng nữ giới khiếm khuyết về năng lực đạo đức do sự lệ thuộc của họ vào xúc cảm hơn là lý tính. A. Baier viết: "Nơi Kant kết luận 'thật tồi tệ với nữ giới', thì chúng ta có thể kết luận khác rằng "thật tồi tệ với sự cứng nhắc của nam giới" về những kỹ xảo trong những điều luật đã được soạn thảo, về đầu óc quan liêu của sự tôn thờ quy tắc phổ quát, và sự cường điệu hóa của nam giới về tầm quan trọng của sự độc lập vượt qua sự phụ thuộc lẫn nhau"[3].
Còn Margaret Walker (1915-1998) thì đối lập cái mà bà gọi là "sự thông hiểu đạo đức nữ quyền" (feminist moral understanding) với cái mà về mặt truyền thống được xem là "tri thức đạo đức" (moral knowledge). Bà cho rằng, thông hiểu đạo đức như là sự chú tâm và thấu hiểu mang tính ngữ cảnh, và là sự đồng cảm trong những suy tư đạo đức. Nhận thức luận đạo đức đối chọn này chỉ ra, sự thông hiểu đạo đức sẽ giảm đi khi hình thức của nó tiếp cận tính phổ quát thông qua sự trừu tượng hóa và khái quát hóa.
Lý thuyết đạo đức về sự quan tâm hướng đến việc hạn chế khả năng và phạm vi ứng dụng của những quy tắc trừu tượng và phổ quát trong các lĩnh vực nhất định mà ở đó lý thuyết đạo đức về sự quan tâm tỏ ra phù hợp hơn như y tế, giáo dục, sức khỏe cộng đồng. Theo các nhà tư tưởng nữ quyền, những quy tắc như thế đơn giản là không còn phù hợp với những hoàn cảnh trong gia đình và tình bằng hữu, thêm nữa những mối quan hệ trong các lĩnh vực này nên được đánh giá với những đặc tính cá nhân và cụ thể, chứ không chỉ đơn thuần được mô tả và luận giải, và vì thế tính đạo đức không nên bị hạn chế trong các quy tắc trừu tượng.
Những lý thuyết đạo đức duy lý có xu hướng kiến giải các vấn đề đạo đức như thể chúng là những sự xung đột giữa một bên là lợi ích cá nhân vị kỷ và bên kia là những nguyên tắc đạo đức phổ quát, trừu tượng. Các cực "cá nhân vị kỷ" và "tính nhân văn" đã được thừa nhận, song cái trung gian nằm giữa chúng thì thường bị bỏ quên. Ngược lại, lý thuyết đạo đức về sự quan tâm đặc biệt chú ý đến "cái gì đó" nằm giữa hai cực trên. Đó là những người quan tâm một cách nhiệt thành đến người khác mà ngay từ đầu không màng đến những lợi ích cá nhân của họ. Nói rõ hơn, lợi ích của họ hòa quyện làm một với lợi ích của đối tượng mà họ hướng sự quan tâm đến.
Phản đối cái nhìn trừu tượng, trong ngữ cảnh đạo đức học hoàn cảnh của tư tưởng nữ quyền, những người này hành động không phải vì lợi ích của tất cả mọi người hay toàn thể loài người nói chung, mà thay vào đó họ duy trì và không ngừng nâng cao hơn nữa mối quan hệ hiện thực giữa bản thân họ và những những con người cụ thể khác. Những con người trong mối quan hệ quan tâm đang hành động cho chính mình đồng thời cũng cho người khác. Đặc điểm tính cách của họ vì vậy cũng không phải là vị kỷ cũng không hoàn toàn là vị tha (altruistic). Đó là những sự tuyển chọn trong một viễn tượng đầy mâu thuẫn. Tuy nhiên, sự lành mạnh của mối quan hệ quan tâm liên quan đến sự lành mạnh có tính chất hợp tác của những con người cụ thể trong các mối quan hệ và cũng là của chính bản thân các mối quan hệ đó.
Lý thuyết đạo đức về quan tâm đặc biệt thừa nhận giá trị đạo đức và tầm quan trọng của các mối quan hệ gia đình và bằng hữu, cũng như nhu cầu về một sự chỉ dẫn đạo đức trong những lĩnh vực này để hiểu được cách thức trong đó các mối quan hệ hiện hành biến đổi và những mối quan hệ mới nảy sinh. Trên cơ sở đó góp phần giữ gìn và phát huy những giá trị truyền thống tốt đẹp, xây dựng những giá trị mới của con người phù hợp với sự tiến bộ và công bằng của xã hội. Nghiên cứu giá trị của những mối quan hệ trong các hoàn cảnh với tư cách là những mối quan hệ mang tính chất cá nhân, lý thuyết đạo đức quan tâm thường tập trung soi xét những trật tự chính trị và xã hội dưới ánh sáng của những giá trị ấy.
Trong một hình thức phát triển cao hơn, lý thuyết đạo đức về sự quan tâm với tư cách là một điển hình của nghiên cứu nữ quyền về đạo đức yêu cầu đưa ra những kiến nghị nhằm biến đổi triệt để xã hội hiện hành. Lý thuyết này không chỉ đòi hỏi sự bình đẳng cho nữ giới trong cấu trúc xã hội, mà xa hơn đòi hỏi một sự nhìn nhận đúng đắn hơn, công bằng hơn và nhân văn hơn từ phía nam giới về những trải nghiệm đặc trưng của nữ giới, để từ đó có thể khám phá những giá trị phong phú, tầm quan trọng và ý nghĩa đạo đức của sự quan tâm. 
Thứ tư, lý thuyết đạo đức về sự quan tâm đặt lại vấn đề về sự phân chia đời sống xã hội thành hai lĩnh vực tách biệt: công cộng (public) và riêng tư (private). Trong các lý thuyết đạo đức duy lý truyền thống thì phạm vi gia đình thuộc về lĩnh vực riêng tư. Lĩnh vực này không liên quan đến chính trị, mà chủ yếu dựa trên nguyên tắc tự nguyện chứ không phải ép buộc. Các nhà tư tưởng nữ quyền đã chỉ ra rằng, nam giới ngày càng sử dụng những phương cách tế vi hơn khi dựa vào quyền lực văn hóa, kinh tế, chính trị và xã hội của mình để cấu trúc lĩnh vực "riêng tư" này nhằm kìm hãm nữ giới trong tình trạng lệ thuộc hoàn toàn về mặt kinh tế và do đó cũng lệ thuộc về các phương diện khác (chính trị, văn hóa, xã hội, giáo dục…). Về điều này, Virginia Held cho rằng, "luật pháp can thiệp một cách không do dự vào những quyết định riêng tư của nữ giới liên quan đến sinh sản nhưng lại không nhiệt tình lắm trong việc ngăn chặn những hành động thực thi quyền lực độc đoán của đàn ông bên trong thành trì của họ (gia đình - Tg)"[4].  Trên cơ sở vạch ra những hạn chế trong các lý thuyết đạo đức truyền thống mang màu sắc duy lý, các nhà tư tưởng nữ quyền đã góp phần làm rõ chức năng xã hội của gia đình cũng như mối quan hệ chặt chẽ giữa gia đình và xã hội, hơn nữa lên án định kiến giới, và mở ra điều kiện cho nữ giới tham gia ngày càng nhiều hơn vào các hoạt động mang tính xã hội.
Các nhà tư tưởng nữ quyền không chỉ tập trung kiến giải về mặt lý thuyết các vấn đề đạo đức   về sự quan tâm, mà còn chú ý đến lĩnh vực ứng dụng của nó, hay nói cách khác, họ chú ý đến cái gọi đạo đức học ứng dụng (applied ethics). Trong lĩnh vực các mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình, giữa gia đình và xã hội, lý thuyết đạo đức về sự quan tâm được các nhà tư tưởng nữ quyền ứng dụng vào việc phân tích các vấn đề như bạo lực trong gia đình, chăm sóc trẻ em, y tế cộng đồng, phúc lợi xã hội, phát triển giáo dục, dân số, chính sách đối với phụ nữ... đó là những vấn đề thiết thân của nữ giới, của mọi gia đình và của mọi quốc gia.
Một đất nước sẽ giàu mạnh hơn, dân chủ hơn, công bằng hơn, văn minh hơn khi nữ giới được gia tăng về quyền lực và tiếng nói của họ được lắng nghe. Chúng ta khó có thể chấp nhận một sự áp đặt của giới này nhằm hạn chế quyền của giới khác và duy trì quyền lực bằng cách cưỡng bức. Sự đồng thuận có lẽ là một phương án khả quan và dễ được chấp nhận hơn. Hơn nữa, tính đa dạng luôn mang lại nhiều khả năng cho sự phát triển hơn tính đơn nhất và độc đoán. Các giới phải nên đối thoại với nhau để qua đó có thể tìm ra phương án tối ưu nhất cho sự phát triển hay nói cách khác tư duy khoa học hiện đại là tư duy phức hợp và đa hệ thống. Chính cách tiếp cận nữ quyền trong đạo đức học đã phần nào nói lên điều đó.
3. Ngay từ khi hình thành, cách tiếp cận nữ quyền đã được vận dụng vào nghiên cứu và đánh giá lại di sản triết học đạo đức truyền thống. Trên cơ sở đó, các nhà tư tưởng nữ quyền đã giới thiệu về một lý thuyết đạo đức mới, chú trọng đến sự quan tâm với tư cách là một lý thuyết đối chọn với lý thuyết đạo đức công lý. Mặc dù có những cách nhìn nhận khác nhau về lý thuyết đạo đức quan tâm, song những giá trị của nó cả về lý luận và thực tiễn là không thể phủ nhận. Những giá trị đó đến nay vẫn tràn đầy hơi thở và nhịp đập của cuộc sống. Ngoài những giá trị nêu trên, lý thuyết đạo đức về sự quan tâm còn cung cấp một phương thức tiếp cận độc đáo và đầy tính nhân văn về những vấn đề đạo đức đương đại đặt trong mối quan hệ với những trải nghiệm đặc thù của nữ giới. Lý thuyết về đạo đức quan tâm thật gần gũi với cuộc sống của chúng ta. Tiếp tục nghiên cứu về nó sẽ góp phần vào việc thực hiện thắng lợi chiến lược quốc gia về bình đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chúng ta sẽ không bao giờ đạt được sự tiến bộ khi nửa dân số bị gạt ra lề xã hội, bị ngăn trở trong việc hiện thực hóa tiềm năng của họ.


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Carol Gilligan, In a different voice: Psychological theory and women's development, Cambrigde: Harvard University Press, 1982.
2. Virginia Held, The Ethics of care: Personal, Political, and Global, New York: Oxford University Press, 2006.

3. Susan Sherwin, Ethics: Toward a feminist approach, Canadian Woman Studies, Vol 6, No. 2 (1985), pp. 21-23.



[1] See: Virginia Held, The Ethics of care: Personal, Political, and Global, New York: Oxford University Press, 2006, p. 10.
[2] See: Virginia Held, Ibid, p. 11.
[3] See: Virginia Held, Ibid, p. 11.
[4] See: Virginia Held, Ibid, p. 12.