Giới thiệu
sách
TRỐN THOÁT TỰ DO
Tác
giả: Erich Fromm
Nxb Từ điển
Bách khoa, Hà Nội, 2007, 330 trang
Erich
Pinchas Fromm (1900-1980), nhà phân tâm học Đức, được đánh giá là đại biểu ưu tú
nhất của trường phái Freud mới. Trong suốt cuộc đời nghiên cứu của mình, ông đã
để lại khá nhiều tác phẩm nổi tiếng, trong đó có những cuốn sách được xếp vào hàng
best seller ở phương Tây. Và, Trốn thoát tự do (1941) là một trong số đó.
Tự
do của con người đã, đang và sẽ luôn là một vấn đề nóng hổi thu hút sự quan tâm
của các nhà tư tưởng. Có thể nói rằng, nếu con người là đề tài trung tâm của
mọi thời đại, là nguồn hứng khởi chủ yếu cho những suy tư triết học, thì tự do của
con người chính là mục đích cuối cùng của những suy tư ấy. Trong lịch sử, vấn
đề tự do đã được các nhà tư tưởng lý giải ở nhiều góc độ khác nhau. Từ góc nhìn
tâm lý học xã hội, trong cuốn Trốn thoát
tự do, E. Fromm đã "tập trung vào khía cạnh vốn là điểm cốt yếu của
những cuộc khủng hoảng văn hóa, xã hội trong thời đại chúng ta: ý nghĩa của tự
do đối với con người hiện đại" (Lời
tựa, tr. 5).
Ngay
từ tựa đề Trốn thoát tự do, tác giả
đã chỉ ra một nghịch lý. Tự do là đích ngắm mà mọi người đều hướng đến, và nhiều
khi người ta phải đấu tranh để giành lấy nó. Vậy thì tại sao lại phải chạy trốn
tự do? Phải chăng thứ tự do ấy là bất cập? Nghịch lý ấy đã được tác giả giải
quyết một cách thỏa đáng trong cuốn sách này.
Cuốn
sách gồm 7 chương và Phụ lục.
Chương
thứ nhất có tựa đề Tự do - một vấn đề tâm
lý. Trong chương này, trước hết, tác giả khẳng định vấn đề cơ bản của tâm
lý học xã hội, đó là vấn đề bản chất con
người. Tác giả viết: "Bản chất con người không phải là một tổng thể
những khuynh hướng bẩm sinh và đã được định sẵn về mặt sinh học, cũng không
phải hình bóng vô hồn của những kiểu mẫu văn hóa trong đó nó tự thích ứng một
cách trôi chảy; nó là sản phẩm của loài người, nhưng nó còn có những cơ cấu và
quy luật cố hữu nào đó" (tr. 26-27). Từ cách tiếp cận tâm lý học xã hội,
tác giả luôn nhấn mạnh đến mối quan hệ "động" giữa cá nhân và xã hội.
Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ ra những yếu tố "bất di bất dịch" trong
bản chất của con người đó là "sự cần thiết phải thỏa mãn những thôi thúc
về sinh lý và nhu cầu trốn tránh sự cô đơn về tinh thần" (tr. 27). Từ đó,
tác giả nêu lên chủ đề chính của cuốn sách: "Con người, càng đạt được tự
do theo ý nghĩa là bộc lộ chân tính độc đáo giữa con người và thiên nhiên thì
càng trở nên một "cá thể riêng biệt", sẽ không có sự lựa chọn nào
khác ngoài việc tự hòa hợp với thế giới trong sự tự nguyện tha thiết và trong
hoạt động sáng tạo hay có tìm cho được sự yên thân bằng những sợi dây trói buộc
với thế giới khi hủy hoại tự do và toàn thể bản ngã độc đáo của mình" (tr.
27).
Chương
tiếp theo có tên Sự xuất hiện của cá nhân
và sự mơ hồ của tự do. Nội dung chính của chương II là làm rõ con người với
tư cách là một cá nhân xuất hiện như thế nào? Tác giả chỉ ra chừng nào con
người còn thống nhất với giới tự nhiên thì khi ấy nó với tư cách là cá nhân vẫn
chưa tồn tại.
Về
phương diện lịch sử, tác giả cho rằng, "thời kỳ cải cách (tức thời kỳ Cải
cách tôn giáo ở Châu Âu- NVP) là khởi thủy của ý tưởng tự do và quyền tự trị
của con người đúng như nó được đại diện trong nền dân chủ hiện đại" (tr.
45).
Chương
thứ ba có tên Tự do trong thời kỳ cải
cách tôn giáo. Trong chương này, tác giả đã phác họa bức tranh toàn cảnh về
con người trong thời Trung cổ và Phục hưng. Từ đó, tác giả nhận định, "xã
hội trung cổ không tước đoạt cá tính trong tự do của hắn, bởi lẽ "cá tính
hãy còn chưa tồn tại; con người vẫn còn liên hệ với thế giới bằng những mối dây
ràng buộc ban sơ. Hắn vẫn chưa tự xem mình như là một cá nhân ngoài vai trò của
mình trong xã hội" (tr. 49). Và, chính sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản
đã góp phần giải phóng và mang lại tự do cho cá nhân. Tuy nhiên khi cá nhân
được giải thoát khỏi thời kỳ trung cổ, thì nó lại cảm thấy sự hoang mang và bất
an ngày càng gia tăng. Tác giả đã dành toàn bộ phần sau của chương III để phân
tích ý nghĩa tâm lý của những học thuyết chủ yếu của đạo Tin Lành (cụ thể là
của Luther và Calvin) với tư cách là các giải pháp cho những nhu cầu tinh thần
vốn nảy sinh từ sự đổ vỡ của xã hội Trung cổ và sự xuất hiện của chủ nghĩa tư
bản. Chính những học thuyết tôn giáo
mới này là tiền đề cho quan điểm hiện đại về tự do của con người.
Hai phương diện của tự do đối với con người
hiện đại là tiêu đề của chương thứ tư. Về mục đích của chương này, tác giả
viết: "Tôi muốn chứng tỏ rằng sự phát triển xa hơn nữa của xã hội tư bản
chủ nghĩa đã tác động đến cá nhân theo phương hướng vốn đã diễn ra từ thời kỳ
cải cách" (tr. 118). Để đạt được mục đích đó, tác giả đã phân tích sự phát
triển mạnh mẽ của chủ nghĩa tư bản trong thời hiện đại, đồng thời chỉ ra tác
động hai chiều của nó lên tự do của con người. Một mặt, chủ nghĩa tư bản đã
"giải phóng con người khỏi những ràng buộc truyền thống.., góp phần to lớn
đến sự thăng tiến tự do tích cực, đến sự phát triển của một tính cách tự thân
hành động, suy xét và trách nhiệm" (tr. 123); mặt khác, nó đồng thời cũng
"biến con người thành công cụ cho những mục tiêu kinh tế vượt trên cá
nhân, và tăng cường sự vô nghĩa nơi cá nhân" (tr. 129). Tuy nhiên, trong
hai phương diện của tự do này, khuynh hướng tiêu cực ngày càng gia tăng, trong
khi khuynh hướng tích cực thì "chẳng còn mấy quan trọng". Vì thế, khi
mô tả tình cảnh con người hiện đại, tác giả cho rằng trong thời kỳ độc quyền
của chủ nghĩa tư bản, "nỗi cô đơn, sợ hãi, và bị bỏ lại trong hoang mang
khiến con người không thể chịu đựng thêm nữa. Họ không thể tiếp tục chịu đựng
gánh nặng của tự do "được giải thoát"; họ phải cố thoát ra khỏi tự do
hay ít ra có thể tiến đến tự do đích thực từ tư do tiêu cực" (tr. 151). Vậy
con người chạy trốn tình trạng bi kịch ấy bằng cách nào?
Chương
thứ năm có tên Những cơ chế đào thoát.
Trong chương này, tác giả đã tập trung phân tích khía cạnh tâm lý những cơ chế
đào thoát khỏi tự do của con người đó là cơ
chế độc tài, tính chất phá hoại,
và sự tuân thủ máy móc. Cơ chế đào
thoát thứ nhất (chế độ độc tài) có những hình thức biểu hiện là khổ dâm và ác
dâm. Tác giả cho rằng, "cả hai khuynh hướng đều là sự giải thoát khỏi tình
trạng cô đơn không chịu nổi" (tr.159), "đều là kết quả của một nhu
cầu cơ bản xuất phát từ việc không có khả năng chịu đựng nỗi cô đơn và yếu đuối
của cá nhân (tr. 176). Tuy nhiên, tác giả cũng khẳng định "trong cả hai
teường hợp tính toàn vẹn của bản ngã cá nhân đều bị đánh mất.., chân tính và tự
do đều mất đi" (tr. 177). Cơ chế đào thoát thứ hai (tính chất phá hoại),
nhắm đến việc loại trừ đối tượng. Cơ chế thứ ba (sự tuân thủ máy móc), theo tác
giả, là giải pháp quan trọng nhất về mặt xã hội, là giải pháp mà phần lớn cá
nhân bình thường tìm thấy trong xã hội hiện đại. Trong "cơ chế đặc
biệt" này (từ dùng của tác giả), "cá nhân không còn là chính mình
nữa; hắn hoàn toàn mô phỏng theo dạng tính cách mà những kiểu mẫu văn hóa mang
lại cho hắn" (tr. 205).
Trong
chương VI - Tâm lý học chủ nghĩa quốc xã, và chương VII - Tự do và nền dân chủ, qua việc phân tích những đặc điểm tâm lý của
chủ nghĩa quốc xã và của nền dân chủ hiện đại, tác giả tiếp tục thảo luận sâu
hơn về hai cơ chế chạy trốn tự do đã được đưa ra trong chương V, là tính độc
đoán và tính máy móc. Theo đó, tính độc đoán tương ứng với hệ tâm lý của chủ
nghĩa quốc xã, và tính máy móc liên quan đến bối cảnh văn hóa trong nền dân chủ
hiện đại. Từ sự phân tích những hạn chế của các phương cách chạy trốn tự do
trong thời hiện đại, tác giả đã đi đến một khẳng định lạc quan rằng, "chúng
ta tin là có một giải đáp tích cực.., con người có thể được tự do nhưng không cô
đơn, có thể suy xét mà không bị tràn ngập trong hoài nghi, độc lập nhưng cũng là
bộ phận không thể tách rời của nhân loại... Nói cách khác, tự do đích thực cốt ở nơi hoạt động tự ý của một nhân cách toàn vẹn hợp
nhất" (tr. 284). Đây chính là mục đích cao nhất, mục đích cuối cùng của
tác giả khi viết cuốn sách này.
Ở
phần Phụ lục - Tính chất và tiến trình xã
hội, trên cơ sở đưa ra khái niệm mới là "tính cách xã hội" cũng
như qua việc so sánh với một số cách tiếp cận khác (của Sigmund Freud, của Max Weber...),
tác giả đã chỉ rõ nguyên tắc nghiên cứu của mình về nền tảng con người của văn
hóa được trình bày trong cuốn sách. Nguyên tắc đó, theo tác giả, là "hệ tư
tưởng và văn hóa nói chung bắt nguồn từ tính cách xã hội; và tự thân tính cách
xã hội được nhào nặn bởi phương thức tồn tại của một xã hội nhất định; và rằng đến
lượt mình, những nét tính cách nổi bật trở thành những động lực hữu ích định hình
tiến trình xã hội" (tr. 326).
Từ
những nội dung được luận giải xuyên suốt toàn bộ cuốn sách, chúng ta thấy rằng tác
giả đã thể hiện một cách tiếp cận rất mới mẻ và đặc sắc về ý nghĩa của tự do đối với con người hiện đại. Có thể xung quanh những
phân tích của tác giả còn có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí trái ngược nhau.
Song, cuốn Trốn thoát tự do của Erich
Fromm vẫn sẽ là một tài liệu quý dành cho những ai quan tâm.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét