Thứ Năm, 22 tháng 3, 2012

XÓA BỎ ĐỊNH KIẾN GIỚI VỚI PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI BỀN VỮNG Ở VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH TOÀN CẦU HÓA


Tóm tắt:

Phát triển nguồn lực con người hiện đang trở thành một trong những yêu cầu cấp thiết  đối với nhiều quốc gia trên thế giới nhằm đảm bảo một sự phát triển vững chắc và lâu bền trong hiện tại và tương lai. Đối với Việt Nam, quan điểm phát triển nguồn lực con người đã được Đảng và Nhà nước khẳng định, và đã trở thành một trong những nội dung quan trọng của chiến lược phát triển đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với phương châm phát triển bền vững cần và hơn thế phải huy động mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực con người giữ một vai trò trung tâm của sự phát triển. Tuy nhiên định kiến giới với tư cách là định kiến đối với nữ giới (chúng tôi nhấn mạnh) đang trở thành rào cản gây trở ngại không nhỏ đối với việc xây dựng và phát huy nguồn lực con người ở Việt nam. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung phân tích về định kiến giới, qua đó đề xuất một số phương hướng góp phần xóa bỏ định kiến giới, mở đường cho việc phát triển nguồn lực con người bền vững ở Việt Nam hiện nay.


1. Nguồn lực con người - nhân tố quyết định đến sự phát triển bền vững ở Việt Nam
Thế giới đương đại đang thể hiện một bộ mặt rất sống động với quá nhiều sự thay đổi so với trước đây. Có thể nói, đây là thời đại mà các quốc gia, dân tộc phải không ngừng củng cố và phát triển tiềm lực để có thể tồn tại trong bối cảnh toàn cầu hóa đầy cơ hội nhưng cũng không ít thách thức. Phát triển là xu thế tất yếu của mọi quốc gia, song phát triển như thế nào thì lại là một vấn đề cần phải đặt ra và suy nghĩ. Nếu như nhà triết học Đức Martin Heidegger (1889 - 1976) từng nói rằng mỗi thời đại đều có một vấn đề để phản tư, thì ngày nay, phát triển đang nổi lên như là một vấn đề của thời đại. Trên các diễn đàn, phát triển đã được tiếp cận và kiến giải bằng nhiều cách khác nhau, nhiều mô hình phát triển đã được đưa ra thảo luận và triển khai. Quả thật, "cái gì hợp lý thì tồn tại, cái gì tồn tại thì hợp lý", nhà triết học Đức G.W.F. Hegel (1770 - 1831) đã nói như thế, vào những thập niên cuối thế kỷ trước, một mô hình phát triển mới đã hình thành với triển vọng sẽ trở thành một mô hình phát triển hoàn chỉnh đó là mô hình phát triển bền vững. Và thực tiễn toàn cầu hiện nay cho thấy, phát triển bền vững đã và đang trở thành mục tiêu phổ quát của nhiều quốc gia nhằm đảm bảo một sự phát triển vững chắc và lâu bền.
Đối với Việt Nam, những thành tựu to lớn đã đạt được trong khoảng thời gian 25 năm đổi mới vừa qua đã khẳng định con đường phát triển đúng đắn mà Đảng và Nhà nước ta đã lựa chọn. Vấn đề lúc này và cũng là một nhu cầu cấp thiết đó là phải xây dựng được một triết lý phát triển đúng đắn dựa trên tính bền vững (sustainability) để có thể đảm bảo cho một sự phát triển bền vững.
Trên con đường phát triển ở Việt Nam, một trong những nhân tố giữ vai trò quyết định đó chính là nguồn lực con người (human resources), bởi lẽ suy đến cùng, con người là chủ nhân sáng tạo ra lịch sử của chính mình thông qua hoạt động thực tiễn tích cực và năng động. Nhận thức được tầm quan trọng mang tính quyết định của nhân tố con người trong sự phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn chú trọng đến việc làm thế nào để có thể phát huy nguồn lực con người một cách có hiệu quả nhất.
Nhằm thực hiện mục tiêu đến giữa thế kỷ XXI, Việt Nam phấn đấu trở thành một nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa[1], trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đưa ra quan điểm phát triển, trong đó cần "phát huy tối đa nhân tố con người, coi con người là chủ thể, nguồn lực chủ yếu và là mục tiêu của sự phát triển"[2].
Quan điểm trên, về thực chất, là sự tiếp nối tư tưởng nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam xem con người là chủ thể và là nguồn lực quan trọng quyết định đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam; và tất nhiên mọi quá trình phát triển kinh tế - xã hội cũng phải hướng tới mục tiêu nhân văn cao cả là vì con người.
2. Định kiến giới với tư cách là rào cản đối với phát triển nguồn lực con người bền vững ở Việt Nam
Ở Việt Nam, phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, toàn dân, do đó cần và hơn thế phải huy động tối đa sự tham gia của mọi người, mọi giới trong xã hội vào việc lựa chọn các quyết định quan trọng. Lịch sử phát triển xã hội cho thấy, không thể có phát triển thực sự nếu vẫn còn một bộ phận nào đó của xã hội bị đối xử bất công hoặc bị loại trừ khỏi sự phát triển. Thêm nữa, để có những bước tiến vững chắc và lâu bền trên con đường phát triển đất nước thì nhất thiết phải phát huy mọi nguồn lực, trong đó nguồn lực con người giữ vị trí trung tâm của sự phát triển. Thực tiễn đã khẳng định nguồn lực con người là yếu tố nội sinh năng động, quyết định đến chiến lược phát triển bền vững của một quốc gia. Sự phát triển chỉ có thể có được bền vững khi sự phát triển ấy hướng đến mục tiêu phát triển con người với tư cách là một thực thể tự do và hạnh phúc. Xuất phát từ ý hướng ấy, không khó để giải thích tại sao Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn coi việc thúc đẩy bình đẳng giới và sự tiến bộ của phụ nữ nhằm hướng đến công bằng xã hội và phát triển bền vững là một phần quan trọng trong chiến lược quốc gia về phát triển bền vững của Việt Nam. Nói cách khác, đảm bảo sự tiến bộ của phụ nữ và bình đẳng giới là một yêu cầu cấp thiết để giải quyết bài toán về phát huy nguồn lực con người vì các mục tiêu phát triển thiên niên kỷ mà Việt Nam đã cam kết với cộng đồng quốc tế.
Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận một cách khách quan rằng, bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được thì hiện nay, trong xã hội Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, mà một trong số đó là hiện tượng bất bình đẳng giới và tình trạng phân biệt đối xử đối với nữ giới đang tồn tại khá phổ biến trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Điều này vô hình trung đã gây cản trở nhất định đối với phát triển bền vững. Cố nhiên, bất bình đẳng giới và tình trạng phân biệt đối xử đối với phụ nữ chỉ là những hiện tượng bề nổi mà nguyên nhân sâu xa của các hiện tượng ấy, theo chúng tôi, chính là định kiến giới. Do đó, muốn xóa bỏ tình trạng bất bình đẳng giới và sự phân biệt đối xử đối với phụ nữ trong hiện thực thì trước hết phải xóa bỏ định kiến giới trong quan niệm của mỗi con người và của toàn xã hội. Nói cách khác, không còn giữ định kiến giới thì việc thực hiện bình đẳng giới và thúc đẩy sự tiến bộ của nữ giới mới trở nên khả thi và triệt để.  Vậy định kiến giới là gì? Và định kiến giới bắt nguồn từ đâu?
Định kiến giới là một hiện tượng hiện diện khá phổ biến trong các xã hội nam quyền. Trong các xã hội ấy, bất cứ ở đâu và trong bất cứ mối quan hệ nào giữa nam giới và nữ giới, chúng ta đều có thể bắt gặp định kiến. Và hiển nhiên, những hình thức của định kiến giới trở nên rất khó phát hiện vì nó đã trở thành "lẽ thường" trong lối nghĩ của cộng đồng. Chúng ta đã sống trong một môi trường mà ở đó những khuôn mẫu giới tính sẵn có trở nên "tự nhiên", "bình thường" theo kiểu nam giới phải như thế này, nữ giới phải như thế kia. Đó chính là những khuôn mẫu giới đã trở thành định kiến mà mỗi người ít nhiều tiếp thu được, tuỳ thuộc vào giới tính của mình.
Trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam, thuật ngữ "định kiến" được định nghĩa là "hiện tượng tâm lý tiêu cực đối với một nhóm xã hội, một cá nhân hay một sự vật, là hiện tượng nhất định có tính chất định hình, khó thay đổi bằng những thông tin, nhận thức duy lý... được củng cố, định hình dần và được biện minh là 'hợp lý' trong nội tâm"[3].
Luật Bình đẳng giới (2006) định nghĩa định kiến giới là "nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực về đặc điểm, vị trí, vai trò và năng lực của nam hoặc nữ"[4].
Từ những định nghĩa trên, chúng ta có thể hiểu định kiến giới là một hiện tượng tinh thần bao gồm nhận thức, thái độ và đánh giá thiên lệch, tiêu cực được định hình và khó thay đổi của giới này đối với đặc tính tâm lý, vị trí, vai trò và năng lực của giới khác.
Cách hiểu này cho thấy, định kiến giới tác động đến cả nam giới và nữ giới, song trên thực tế, so với nam giới thì nữ giới là đối tượng chủ yếu chịu sự tác động thường xuyên của định kiến giới. Từ góc nhìn đó, chúng tôi sẽ tập trung phân tích về định kiến giới như là định kiến đối với nữ giới (chúng tôi nhấn mạnh)*.
Sở dĩ các quan niệm định kiến giới này thường thiên lệch bởi lẽ trên thực tế những đặc tính tâm lý, vị trí và vai trò ấy có thể đại diện cho cả nam giới và nữ giới, song lại thường bị "chỉ định, gán cho" nữ giới và điều này đã gây thiệt thòi cho họ xét theo một khía cạnh nhất định. Chính định kiến giới ấy đã hạn chế những tiềm năng to lớn của nữ giới, đồng thời cũng chính là nguyên nhân sâu xa dẫn đến một hiện tượng phổ biến khác đó là bất bình đẳng giới. Vì vậy, để có thể xây dựng được một xã hội tốt đẹp, công bằng và bình đẳng giới thì không thể không xóa bỏ định kiến giới.
Về sự tồn tại định kiến giới, trong lĩnh vực tâm lý học đã đưa ra những lý giải khác nhau.[5] Ở đây, chúng tôi cũng xin chỉ ra một số nguyên nhân chủ yếu dẫn đến hình thành định kiến giới:
Trước hết, định kiến giới là sản phẩm đặc trưng của nền văn hóa nam quyền.
Sắc thái nam quyền trong văn hóa và xã hội Việt Nam bắt nguồn chủ yếu từ trong lịch sử và được phát huy quyền năng của nó nhờ sự hậu thuẫn mạnh mẽ của hệ tư tưởng Nho giáo. Được du nhập vào nước ta từ sớm, Nho giáo không chỉ dần khẳng định được vai trò quan trọng của nó mà còn lưu lại dấu ấn sâu đậm trong đời sống xã hội và văn hóa của dân tộc ta. Trong một thời gian dài, những chuẩn mực lễ nghĩa mang sắc thái nam quyền của Nho giáo đã trở thành khuôn mẫu kiến tạo xã hội Việt Nam, theo đó vị trí và vai trò của nữ giới hầu như không được coi trọng nếu không muốn nói là bị khinh miệt. Hiện nay, dù Nho giáo không còn giữ vai trò hệ tư tưởng chính thống, tuy nhiên những yếu tố "nam quyền" của Nho giáo vẫn ảnh hưởng sâu đậm trong nền văn hóa Việt Nam. Bắt nguồn từ trong lòng nền văn hóa ấy, quan niệm "trọng nam khinh nữ" đã được gieo trồng, sinh sôi và bám rễ sâu trong suy nghĩ của con người Việt Nam (cả nam giới và nữ giới) và qua lăng kính ấy dần trở thành lối tư duy định kiến đối với nữ giới trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Trong bối cảnh giao lưu văn hóa ngày càng rộng mở và hội nhập kinh tế quốc tế đang diễn ra mạnh mẽ như là xu thế tất yếu đương đại, đất nước Việt Nam ngày hôm nay đã có quá nhiều sự đổi khác theo chiều hướng tiến bộ và văn minh hơn. Nền văn hóa Việt Nam thể hiện biện chứng đan quyện của tính hiện đại và tính truyền thống đan quyện vào nhau hợp thành chỉnh thể văn hóa Việt Nam. ễn tượng của sự phát triển ấy thì những yếu tố nam quyền và tâm lý gia trưởng vẫn còn in dấu khá đậm nét trong cộng đồng người Việt. Chính điều này đã góp phần không nhỏ vào việc duy trì sự tồn tại dai dẳng của định kiến đối với nữ giới trong xã hội Việt Nam
Thứ hai, định kiến giới hình thành từ sự vận động và biến đổi của phân công lao động xã hội xét từ góc độ giới.
Mặc dù huyền thoại về một xã hội mẫu quyền tồn tại vào buổi đầu của lịch sử, tuy nhiên bản thân lịch sử thì lại luôn vận động, biến đổi. Sự phát triển ngày càng cao của nền sản xuất xã hội đã dần làm thay đổi cấu trúc phân công lao động xã hội. Nếu như ban đầu, công việc sản xuất của nữ giới chiếm vị trí quan trọng thì càng về sau, với sự phát triển của công cụ lao động và sự biến đổi phân công lao động thì ưu thế về mặt sinh học đã làm cho công việc sản xuất xã hội của nam giới ngày càng trở nên quan trọng và theo chiều ngược lại, kinh tế gia đình của người phụ nữ trở nên kém quan trọng, theo đó nam giới từng bước chiếm giữ những công việc kinh tế chủ đạo, còn nữ giới dần bị đẩy về phạm vi gia đình với những công việc nội trợ hàng ngày. Chính việc nam giới đảm nhiệm những công việc lao động sản xuất chủ yếu, còn nữ giới giữ vai trò thứ yếu trong sản xuất đã làm thay đổi quan hệ trong gia đình, theo đó nữ giới cũng dần lệ thuộc vào nam giới. Sự lệ thuộc về mặt kinh tế như phân tích ở trên đây tất yếu sẽ dẫn đến sự lệ thuộc toàn diện của nữ giới vào nam giới.
Từ góc độ giới có thể khẳng định rằng, chính sự phát triển của nền sản xuất và sự biến đổi phân công lao động xã hội trong quá trình phát triển của lịch sử đã góp phần hình thành quan niệm định kiến "chỉ định, gán cho" nữ giới do yếu kém, thụ động, hướng nội nên chỉ phù hợp với công việc nội trợ trong gia đình, còn nam giới với những đặc tính năng động, linh hoạt thích hợp với những công việc "đại sự".
Thứ ba, định kiến giới còn xuất phát từ tâm lý "an phận" của chính bản thân người phụ nữ.
Nếu như hai nguyên nhân trước mang tính khách quan dẫn đến hình thành định kiến đối với nữ giới thì ở nguyên nhân này, chính bản thân nữ giới phải chịu một phần trách nhiệm về tình trạng lệ thuộc của mình và cái nhìn định kiến của xã hội đối với mình. Với việc bị xã hội "chỉ định, gán cho" những đặc tính yếu kém, thụ động, thay vì nữ giới phải phấn đấu, nỗ lực để xóa bỏ tình trạng ấy thì dường như họ lại "đồng thuận" với định kiến ấy như một điều đương nhiên, chấp nhận đó như là số phận của mình.
Hiện nay, quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đang ra sức đẩy mạnh bình đẳng giới và nâng cao nhận thức của xã hội đối với nữ giới, qua đó đem lại nhiều khả năng và điều kiện để nữ giới có thể khẳng định và hiện thực hóa vai trò và vị trí của mình, nhưng dường như giới nữ vẫn chưa thực sự sẵn sàng nhập cuộc để khẳng định tiếng nói và khả năng của mình. Có thể thấy rằng, chính tâm lý "an phận" đang trở thành một đặc điểm tâm lý gây trở ngại không nhỏ đối với sự tiến bộ của phụ nữ Việt Nam.
Định kiến giới luôn tồn tại dai dẳng trong tâm lý của con người như một lề thói tư duy khó phai mờ. Vì vậy, xóa bỏ định kiến giới cần được nhận thức như là một công việc lâu dài, khó khăn và đầy thử thách đòi hỏi sự nỗ lực to lớn từ cả hai giới.
3. Xóa bỏ định kiến giới mở đường cho phát triển nguồn lực con người bền vững ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa
Bối cảnh quốc tế hiện nay thực sự đem lại rất nhiều cho loài người khi đã mở ra cơ hội cho sự phát triển mang tính nguyên tử của nhiều quốc gia, đồng thời sự gia tăng về phạm vi và cường độ của các mối quan hệ liên văn hóa đã không ngừng xóa nhòa các ranh giới giữa các quốc gia, khu vực. Thế giới đương đại dường như được thu nhỏ lại dưới sức mạnh của quá trình toàn cầu hóa. Nhiều cách kiến giải khác nhau đã được đưa ra, song có một điểm thống nhất đó là nhân loại ngày nay không còn là tập hợp của các cộng đồng người xa lạ, khép kín và "xung đột" mà đã không ngừng hội nhập, xích lại gần nhau hơn, và cũng qua đó các giá trị nhân văn phổ quát cũng dễ dàng được chia sẻ.
Những thành tựu đạt được về mặt chính trị pháp lý quốc tế trong thế kỷ XX đã thừa nhận những giá trị nhân văn phổ quát về quyền con người và vị thế của người phụ nữ đã tạo ra những điều kiện thuận lợi cho việc xóa bỏ định kiến giới. Trong thế kỷ XX, phong trào nữ quyền ở phương Tây đã diễn ra mạnh mẽ hòa quyện với hàng loạt các phong trào chính trị xã hội khác, góp phần không nhỏ trong việc phá đổ thành trì kiên cố của chế độ nam quyền. Những giá trị cao đẹp của quyền con người và quyền phụ nữ đã từng bước được thừa nhận và được thể chế hóa trong các điều ước, các hiệp ước quốc tế. Chính những thành tựu to lớn này đã đem đến những thuận lợi cho việc nâng cao vị thế của người phụ nữ ở Việt Nam, qua đó từng bước đẩy lùi định kiến giới vốn bám rễ trong tầng sâu tâm thức và truyền thống của người Việt. Trước tiến bộ mà nhân loại đã đạt được về nữ quyền, người phụ nữ đã bắt đầu phản tỉnh về thân phận, vai trò và vị trí của mình trong gia đình và xã hội.
Tác động của bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay còn thể hiện ở sự biến đổi phân công lao động xã hội và làm thay đổi cấu trúc của gia đình ở Việt Nam, và qua đó góp phần mở ra cơ hội để nữ giới có thể tham gia vào nền sản xuất xã hội và phát huy cao nhất năng lực của mình. Đây là cơ sở để nữ giới có thể được nhìn nhận một cách khác đi theo hướng tích cực hơn.
Cùng với sự biến đổi cấu trúc gia đình thì mối quan hệ giữa các thành viên trong gia đình cũng có sự biến đổi. Sức nặng của tôn ti, trật tự không còn nặng nề như trong các gia đình truyền thống mà thay vào đó là mối quan hệ bình đẳng hơn theo kiểu đề cao sự tự do cá nhân của mỗi thành viên.
Sức lan tỏa của toàn cầu hóa đã len lỏi vào từng tế bào của xã hội - gia đình, góp phần thức tỉnh người phụ nữ, làm cho họ thay đổi quan niệm về vai trò của vai trò, vị trí của chính mình. Nói rõ hơn, sự biến đổi nhanh chóng của đời sống hiện đại đã tạo ra những tiền đề thuận lợi để người phụ nữ tự tin bước ra xã hội như là một chủ thể thực sự. Thực tiễn đã cho thấy, hiện nay người phụ nữ ngày càng có vai trò quan trọng trong các lĩnh vực xã hội, tiếp cận thường xuyên hơn với các nguồn lực phát triển, các quyết định, các sinh hoạt cộng đồng và thụ hưởng các lợi ích, phúc lợi gia đình. Thêm nữa, các thành viên gia đình và các dịch vụ xã hội cũng từng bước chia sẻ gánh nặng công việc nội trợ gia đình của người phụ nữ, góp phần tạo điều kiện và cơ hội để phụ nữ có thể tham gia vào sự phát triển xã hội và phát huy cao nhất tiềm năng to lớn của mình.
Có thể thấy rằng, bối cảnh quốc tế hiện nay đã mở ra những điều kiện thuận lợi để phụ nữ có thể vươn lên chứng minh tiềm năng to lớn của giới mình, qua đó tạo lập hình ảnh người phụ nữ hiện đại bản lĩnh, năng động và nhiệt huyết - người phụ nữ của thế kỷ XXI. Nếu được như thế, thiết nghĩ, định kiến đối với nữ giới sẽ dần bị xóa bỏ trong suy nghĩ của mỗi người và xã hội.
Nhận thức về định kiến giới đã khó, và để xóa bỏ nó thì lại càng khó hơn. Đó là một công việc lâu dài và nhiều thách thức. Ở đây, chúng tôi xin đề xuất một số phương hướng góp phần gỡ bỏ rào cản định kiến giới mở đường cho việc phát huy vai trò của nữ giới nói riêng, thực hiện mục tiêu bình đẳng giới và phát triển nguồn lực con người phục vụ quá trình phát triển bền vững ở Việt Nam:
Một là, chú trọng nghiên cứu chuyên sâu kết hợp với tuyên truyền, giáo dục, phổ biến rộng rãi những kiến thức tiên tiến về giới và về vai trò của phụ nữ nhằm nâng cao nhận thức đúng đắn của cộng đồng, của xã hội về đặc tính, vị trí, vai trò của nữ giới, từng bước đẩy lùi và xóa bỏ những định kiến sai lầm, thiên lệch về giới nữ, đảm bảo cho nữ giới có thể tham gia đóng góp cho sự tiến bộ xã hội một cách chủ động và bình đẳng.
Trong những thập niên qua, khoa học về giới cũng đã đạt được những bước thăng tiến đáng kinh ngạc với nhiều tri thức mới, nhiều cách tiếp cận mới nhiều khung lý thuyết mới về giới và phụ nữ, về vai trò của phụ nữ trong phát triển.[6] Những tiến bộ  đó sẽ chẳng là gì nếu không được phổ biến trong xã hội cho mọi người biết. Vì thế, các chuyên gia của Quỹ Dân số Liên hiệp quốc (UNFPA) luôn kêu gọi "phải tuyên truyền mạnh hơn nữa giá trị, vai trò của phụ nữ trong gia đình, xã hội".
Để thực hiện ý hướng đó một cách hiệu quả thì cần thiết phải chú trọng hơn nữa vào hướng nghiên cứu chuyên sâu (tổ chức các Hội thảo quốc gia và quốc tế về chủ đề giới và vai trò của nữ giới trong phát triển bền vững, các chương trình nghiên cứu các cấp và hợp tác nghiên cứu về giới và phụ nữ) kết hợp với tăng cường phổ biến kiến thức tiên tiến về giới trong xã hội thông qua nhiều hình thức và biện pháp khác nhau (tuyên truyền phổ thông, kết hợp giáo dục gia đình - nhà trường - xã hội, các phương tiện truyền thông đại chúng...) để mọi người có thể tiếp thu một cách nhanh nhất, đầy đủ nhất và hiệu quả nhất những thành tựu về khoa học, chính trị, pháp lý liên quan đến vấn đề giới và phụ nữ mà nhân loại đã đạt được, góp phần đem lại cái nhìn mới tích cực hơn về vai trò, vị trí và những đóng góp của nữ giới, qua đó từng bước đẩy lùi và xóa bỏ định kiến tiêu cực mà xã hội đã và đang "gán cho" người phụ nữ.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống các thiết chế kinh tế, chính trị và mạng lưới chính sách xã hội, đồng thời đẩy mạnh xã hội hóa công việc gia đình nhằm một mặt, giảm bớt áp lực cho nữ giới từ những công việc gia đình; mặt khác, tạo điều kiện và môi trường thuận lợi để họ có thể khẳng định và phát huy cao nhất năng lực đóng góp vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Thực hiện tốt điều này sẽ góp phần huy động một nguồn lực đáng kể cho tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội bởi lẽ những đóng góp và tài năng của nữ giới Việt Nam đã được khẳng định trong tiến trình phát triển của lịch sử Việt Nam.
Ba là, khắc phục tâm lý an phận của chính bản thân người phụ nữ, xây dựng hình mẫu người phụ nữ hiện đại năng động, bản lĩnh, kết hợp hài hòa nhiệm vụ gia đình và trách nhiệm xã hội.
Người xưa từng nói "tiên trách kỷ hậu trách nhân", vì thế người phụ nữ trước khi muốn giới khác xóa bỏ cái nhìn định kiến đối với giới mình thì bản thân họ trước hết cần phải tự nhìn về mình một cách tích cực, tự tin và chủ động hơn, từng bước xóa bỏ tâm lý tự ti và thụ động. Việc duy trì tâm lý này trong một thời gian dài tất yếu sẽ tạo nên lối suy nghĩ an phận nơi người phụ nữ. Chính vì thế, người phụ nữ cần phải rũ bỏ những đặc tính an phận gây cản trở cho sự tiến bộ của mình để phấn đấu trở thành người phụ nữ hiện đại năng động, bản lĩnh, kết hợp hài hòa nhiệm vụ gia đình và trách nhiệm xã hội. Có như thế, định kiến giới mới có thể từng bước bị xóa bỏ và được thay thế bởi một cái nhìn khác tích cực hơn về giới nữ.
4. Kết luận
Định kiến giới hay cái nhìn thiên lệch về vị trí, vai trò của các giới, nhất là của nữ giới, tất yếu sẽ dẫn đến hệ quả tiêu cực đó là tình trạng bất bình đẳng giới và phân biệt đối xử đối với phụ nữ. Những hiện tượng đó gây không ít khó khăn cho việc phát huy nguồn lực con người vì mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam.
Viễn tượng giao lưu và hội nhập ngày càng mở rộng hiện nay góp phần tạo ra những điều kiện thuận lợi để Việt Nam có thể xóa bỏ định kiến giới như là một hiện tượng tâm lý - văn hóa đang cản trở đáng kể đối với việc phát huy nguồn lực con người, mở ra khả năng cho việc hiện thực hóa các mục tiêu phát triển bền vững ở Việt Nam.
Dù nghiên cứu về định kiến giới ở Việt Nam không còn là lĩnh vực mới mẻ, tuy nhiên soi chiếu sự tác động của định kiến giới đối với việc phát triển nguồn lực con người phục vụ cho phát triển bền vững ở Việt Nam là một việc làm cần thiết. Thiết nghĩ, các phương hướng được đề xuất trong bài viết được nhìn nhận như là một nỗ lực nhằm góp phần gỡ bỏ định kiến giới với tư cách là một trong những rào cản đối với việc huy động mọi nguồn lực xã hội vì mục tiêu xây dựng và phát triển một nước Việt Nam ngày càng mạnh mẽ hơn và bền vững hơn trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay.
________________________

ERASING GENDER PREJUDICE WITH DEVELOPING SUSTAINABLE HUMAN RESOURCES IN VIETNAM IN GLOBALIZATION CONTEXT

Summary:
In current era, sustainable development is an essential orientation and an urgent requirement for many countries in the world to ensure a solid and stable development in both present and future.  For Vietnam, concept of sustainable development has been affirmed by Communist Party and Government, and has become an important content in national development strategy. Industrialization and modernization with motto of sustainable development needs and has to mobilize all resources in which human resources always plays a central role of the development, but gender bias as bias against female (we emphasize) has been becoming the barrier which significantly obstructs the developing of the human resources in Vietnam. In this paper, we would focus on analyzing gender prejudice, on which proposing some directions to eradicate gender prejudice step by step and clearing the path for the sustainable human resources development in Vietnam in present time.







TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.   Trần Thị Vân Anh (2000), "Định kiến giới và các hình thức khắc phục", Khoa học về phụ nữ, số 5, tr. 3-10.
2. Chiến lược quốc gia về phát triển vền vững, http://www.agenda21.monre.gov.vn
3.   Ngô Tuấn Dung (2003), "Định kiến giới từ góc độ tâm lý", Khoa học về phụ nữ, số 6, tr. 16-24.
4. Nguyễn Tấn Dũng (2011), "Nội dung chủ yếu của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và nhiệm vụ trọng tâm của năm 2011", http://www.chinhphu.vn.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Luật Bình đẳng giới (2008), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam trực tuyến, http://www.bachkhoatoanthu.gov.vn/


[1] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 71.
[2] Xem: Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 100.
[3] "Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam trực tuyến", http://dictionary.bachkhoatoanthu.gov.vn/
[4]  Luật Bình đẳng giới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 9.
* Vì nữ giới là đối tượng chịu sự tác động tiêu cực của định kiến giới thường xuyên hơn và phổ biến hơn so với nam giới. Trong khuôn khổ của bài viết này, chúng tôi chỉ nhấn mạnh định kiến giới như là định kiến đối với nữ giới chứ không bàn đến định kiến đối với nam giới.
[5] Xem thêm: Ngô Tuấn Dung, "Định kiến giới từ góc nhìn tâm lý học xã hội", Khoa học về phụ nữ, số 6, 2003, tr. 16-24.
[6] Trong lĩnh vực xã hội học đã xuất hiện những cách tiếp cận mới để lý giải về vai trò của phụ nữ và bình đẳng giới trong sự phát triển như Phụ nữ trong phát triển (Women in development - WID), Giới và Phát triển (Gender and Development - GAD).

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét